talawas chủ nhật

 
Văn xuôi :: 01.04.2007


Đoàn Minh PhượngVà khi tro bụi


Doan Minh Phuong
Đoàn Minh Phượng
Ảnh: Đoàn Thành Nghĩa

Tiểu thuyết đầu tay Và khi tro bụi của Đoàn Minh Phượng ra mắt ở Việt Nam vào tháng tư năm 2006, sau khi tác giả đã hoàn thành bộ phim truyện Hạt mưa rơi bao lâu (2004) và khẳng định vị trí đạo diễn điện ảnh của mình thông qua nhiều giải thưởng liên hoan phim quốc tế. Với quyết định chọn một phương tiện biểu đạt mới, không phải là ngôn ngữ phổ quát quốc tế của điện ảnh, mà là nghệ thuật ngôn từ mang nặng tính riêng tư và gắn liền với số phận và lịch sử của một ngôn ngữ cụ thể, trong trường hợp này là tiếng Việt, tác giả đã chấp nhận một thách thức lớn. Tuy nhiên khác với tác phẩm điện ảnh trước đó với khoảng không - thời gian quá khứ của một làng quê Việt Nam cách đây hai thế kỷ, tuyến hành động cơ bản của tác phẩm tiểu thuyết lại diễn ra ở châu Âu và Ấn Độ trong thời hiện tại với những địa danh như Paris, Frankfurt hay Rajasthan… Và khi tro bụi vừa mang đầy chất thơ, chất ma lỵ, dường như gần gũi với phong cách của một Theodor Storm, cây bút văn xuôi hàng đầu của Đức vào cuối thế kỷ 19, hơn là với truyền thống của văn học Việt Nam, vừa mang tầm triết luận Đông – Tây như ở Siddhartha của Hermann Hesse, mặc dù thực chất đây là một cuốn Phản-Hesse, đồng thời lại là một cuốn truyện trinh thám với một cốt truyện và bố cục tinh vi. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

Trương Hồng Quang

 

Đoàn Minh Phượng

Và khi tro bụi


I II III


14.

Cây đàn hồ cầm của Anita

Tôi lau bụi cây đàn của Anita bằng bàn tay của mình, bàn tay đã quệt nước mắt cho ông Kempf. Tôi căng lại giây đàn. Tôi vuốt nhựa thông lên những sợi lông đuôi ngựa của cánh cung. Tôi tìm một nơi để ngồi xuống, dang chân ra, đặt cây hồ cầm vào giữa, sát người tôi. Tôi nhắm mắt nhớ lại những nốt nhạc đầu tiên của một bài sonate của Bach và tôi bắt đầu kéo đàn, lần đầu tiên sau bảy năm kể từ ngày tôi đem bán chiếc đàn của mình.

Cây đàn có tiếng vang tuyệt vời. Nó hơi khan và chững chạc, mong manh nhưng không mất tiếng. Tiếng nó đẹp, đổ đầy một không gian bao la vừa dồn dập vừa nhạy cảm. Giản dị đây là một cây đàn quí.

Tôi chơi bị sai nhiều nốt. Tôi nghe thấy mình sai, kịp sửa lại cho đúng, cố không bỏ nhịp. Dù vấp váp, tôi cũng cứ đi, cứ buông mình theo giòng nước dù có lúc chới với và lạc giọng. Tôi chơi rất lâu, không nhớ tới chỗ ngồi của mình và buổi chiều đang tắt đi ở bên trên, ngoài kia. Lúc chơi nhạc tôi có một ý thức khác, một hồn phách khác, một cuộc đời khác, dường như có một con người ở một cõi riêng không vướng vào những chuyện của tháng ngày hiện tại. Âm nhạc không nằm trong không gian, nó là không gian. Âm nhạc không xảy ra trong thời gian, nó đã trở thành thời gian. Nếu tôi mở mắt ra, buông cây cung kéo đàn xuống, nó sẽ biến mất muôn đời.

Cuối cùng bản nhạc hết, tôi để rơi chiếc cung kéo đàn. Tôi đặt cây hồ cầm dựa tường và tôi ngồi thật im trong bóng tối. Tôi chợt nhận ra rằng tôi đang khóc, không biết từ lúc nào. Khi nước mắt đã bắt đầu rơi, nó không ngưng được nữa. Tôi nhớ lại trọn vẹn nỗi buồn của Anita. Tôi không nhớ lại những câu chuyện buồn đã xảy đến với chị mà tôi đã dần dần biết được, chỉ nhớ nỗi buồn. Những chuyện buồn là những điều riêng lẻ, những mảnh vụn của một cuộc đời không còn nguyên lành. Còn nỗi buồn là một đại dương, trọn vẹn, mênh mông không có các đường viền.

Tôi mang cây đàn của Anita lên trên nhà. Tôi đi tìm gian phòng trước kia chị đã ở. Căn nhà chỉ có ba phòng ngủ, hai phòng cho hai đứa con trai và một phòng của hai vợ chồng, chị không có phòng riêng. Tôi mở tủ tìm tấm trải, phủ nó lên một trong hai cái nệm trần dầy và cứng trên chiếc giường lớn và hơi quá cao. Tôi trở xuống hầm lần lượt khênh hai cái thùng đựng những thứ của chị lên để ở giữa phòng. Tôi leo lên giường nằm và nhìn lên cái trần nhà chị đã nhìn vô số những buổi tối trước khi ngủ. Gian phòng không còn một chút mùi hương nào của Anita. Chỉ có mùi của chiếc nệm cũ, mùi của đau yếu và hơi ẩm đọng lại từ nhiều năm. Mùi của một sự chết kéo dài, kiên nhẫn và bất dịch. Tôi thấy sợ. Tôi bước ra hành lang. Tôi đẩy cửa bước vào một căn phòng nhỏ, tôi nghĩ là phòng của Marcus. Vẫn còn đó chiếc giường nhỏ và cái bàn học, nhưng phòng đã trở thành một nơi chứa những thứ không dùng đến, một cái nhà kho không nhiều đồ lắm. Tôi trở qua căn phòng lớn mang cây đàn rồi kéo hai cái thùng đựng đồ đạc của Anita qua đây. Căn phòng này cũng có mùi ẩm mốc, nhưng ít nhất, nó không có mùi của ông Kempf.

Tôi băng qua phòng khách lớn và tối, đi đến nhà bếp nằm bên phải của căn nhà. Tất cả đều hoang tàn. Tôi đứng ở nơi có chiếc cửa sổ nhìn ra ngoài sân, nơi vào mùa đông cuối cùng Michael đã đứng nhìn ra thấy cái xác con chó đã đông cứng nằm bên ngoài, nó chết đã nhiều ngày rồi mà vẫn chưa được đem chôn. Bây giờ chỉ có mình tôi, một người lạ, đến ở cùng âm hồn của người đã chết và âm hồn của những người còn sống. Tôi nhìn ra cửa sổ, không thấy gì, chỉ thấy ánh sáng từ cửa sổ bên trong hắt ra một ánh vàng nửa đục nửa trong rồi ngấm mất vào bóng tối.

Trên mấy tấm ván bắc làm kệ dưới hầm tôi tìm được vài hộp đậu hòa lan nấu với nước muối loãng. Tôi mang lên bếp tìm đồ khui, mở một hộp đặt trên bàn. Tôi vặn nước rửa một cái muỗng. Tôi ngồi ở bàn múc đậu ăn. Đêm nay tôi sẽ ngủ lại đây, cùng với những âm hồn.

Buổi sáng tôi tìm thấy một chiếc xe đạp trong nhà kho ngoài sân. Tôi tìm thấy đồ nghề, tôi sửa giây sên, canh tay lái, vá ruột xe ngoài kho gần hết một ngày. Buổi chiều, tôi đạp xe xuống thị trấn mua bánh mì, thịt hộp, thuốc gội đầu, bột giặt và thuốc chùi nhà. Hôm sau tôi giặt giũ, lau nhà suốt cả ngày không suy nghĩ và không buồn vui gì cả.

Buổi tối, tôi thắp ngọn đèn ở chiếc bàn học cạnh cửa sổ, ngồi đọc những thứ tôi tìm được của Anita và của Marcus. Nhưng những gì tôi tìm được quá hiếm hoi. Tôi không biết ông Kempf đã đốt đi bao nhiêu sách vở của họ. Anita chỉ còn lại hai cuốn nhạc, tôi mở ra, thấy chị thỉnh thoảng dùng bút chì đánh dấu những đoạn nhạc khó hay tự dặn dò mình phải chơi chậm và nhiều chú ý hơn. Thỉnh thoảng, cũng bằng những nét bút chì mong manh, chị ghi lại đâu đó trên lề những trang nhạc: Tối lúc đi ngủ Marcus bị sốt 39,5 độ, buổi sáng 38 - Michael không thích nhạc. Marcus thích ngồi nghe tôi chơi, nhưng bảo cậu học cậu cũng lắc đầu - Tại sao tôi không mơ những giấc mơ khác, những giấc mơ khác, những giấc mơ khác – Mùi hương gió thoảng bên đường nghe còn quen thuộc hơn hơi thở của anh ấy.

Một đời người chỉ để lại bốn giòng ngắn viết bằng bút chì trên lề giấy. Hai giòng dành cho con, hai giòng kia thật bâng quơ. Chỉ có vậy thôi sao? Tôi không biết Anita có một cuốn sổ ghi chép nào không. Nếu có, hẳn ông Kempf đã đốt đi rồi.

Tôi dỡ từng trang hai quyển sách nhạc, cố tìm thêm một ghi chú nào đó. Chợt tôi thấy hai tờ giấy xé ra từ vở học trò gấp lại, nằm ở giữa những trang nhạc. Có thể Anita trước khi vứt đi một quyển sổ nhật ký viết lúc còn rất trẻ, đã xé ra và giữ lại vài trang ghi chép mà chị không muốn đánh mất, nhưng cũng không biết phải giữ nó ở đâu…

Đây là một trang giấy trắng. Trên đó có những đường kẻ song song, những chấm đen, những vệt cong. Đây là âm nhạc. Tại sao những tần số rung dài ngắn khác nhau của âm thanh, kéo dài trong một khoảnh khắc nào đó; tại sao những khoảng cách lên xuống từ một vệt đen này đến một vệt đen khác lại nói với chúng ta được câu chuyện của riêng nó?

Có những lúc tôi nhìn một trang nhạc, dù bản nhạc ấy tôi đã từng chơi, tôi vẫn không nghe thấy gì hết, như lúc người ta dỡ ra một cuốn sách chép bằng một thứ cổ tự mà họ chưa khám phá ra cách đọc. Cũng có lúc tôi dỡ ra một trang nhạc trước mặt mình trong một căn phòng yên lặng và tôi nghe thấy tiếng trôi của nước, tiếng kêu của một loài chim nhỏ dưới một bầu trời mây vần vũ u buồn. Mắt tôi lướt theo những chấm đen trôi trên những đường kẽ song song, và tôi nghe hơi tê đau ở những đầu ngón tay như khi tôi dang nhấn trên những giây đồng dù lúc đó tôi đang ngồi bất động trong một gian phòng hoàn toàn im lặng.

Khi tập đàn, tôi đặt những chấm đen trên những đường kẻ song song lên cây đàn bằng những đầu ngón tay của tôi. Dầu chơi đàn đã lâu nhưng tôi vẫn còn cảm giác hơi đau ở những ngón tay bấm phím. Cảm giác đau đau đó là một phần của công việc tạo ra âm thanh. Như độ cao của mặt ghế tôi ngồi, như một chút hơi ẩm của mồ hôi trong lòng bàn tay, như độ nghiêng rất khẽ của chiếc hồ cầm buồn bã dựa vào tôi. Và tôi ngồi tập đàn giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác, năm tháng và tuổi tác của tôi tan biến đi, ý niệm thời gian chỉ còn nằm trong những khoảnh khắc của những nốt nhạc rơi rớt theo nhau. Mới đầu mắt tôi dẫn tôi đi theo đường đi lên xuống của những chấm đen trên những đường kẻ song song. Nhưng sau đó những chấm đen đó bị quên mất và tôi đi theo âm thanh đã trở thành ký ức. Những ngón tay trái bấm phím và những ngón tay phải cầm thanh kéo cũng có ký ức của riêng chúng.


Khi chơi nhạc tôi cảm nhận được cả thân thể mình hơn bao giờ hết. Ý niệm và cảm xúc chảy theo tất cả những mạch máu trong người đến những đầu ngón tay và thoát ra ngoài bằng tiếng nhạc. Chúng thoát ra như thế nào vẫn là một bí mật muôn đời. Nhiều lần, nhiều lần lắm, sự mầu nhiệm ấy không đến và tôi nhốt mình trong vô số những giờ tập đàn lầm than, những đầu ngón tay tôi tím đi vì tuyệt vọng.

Mùa đông qua tôi chỉ chơi Dvorak. Khi kỹ thuật mới tạm xong, tôi vẫn chưa cho phép mình đem những cảm xúc riêng tư vào bài nhạc. Tôi sẽ ở một nơi âm thanh chỉ chuyên chở chính nó chứ không có điều gì khác. Tôi không có kỷ niệm, chữ viết, hình ảnh, ước mơ. Chiều sâu và nỗi buồn là của những khoảnh khắc ở giữa những nốt nhạc chứ không phải của một kỷ niệm nào đó tôi đang nhớ tới. Một hôm nào đó khi đoạn nhạc tôi chơi đã đủ mạnh mẽ để tồn tại như một bài thơ toàn vẹn bằng âm thanh, tôi sẽ thả nó bay qua rừng núi, biển cả và lịch sử của riêng tôi. Tôi sẽ vẫn ngồi rất cô đơn trong căn phòng đóng cửa. Tôi sẽ nhớ tới tiếng sóng âm thầm dưới đáy sông của giòng sông mênh mông nơi quê hương ở miền Đông, nhớ tới màu tím ngắt của bầu trời tôi thấy vào năm mười bảy tuổi. Nỗi buồn của tôi sẽ là vực thẳm để tiếng nhạc tôi rơi vào đó. Tôi chưa nhìn thấy đáy của cái vực thẳm đó.


Một tờ giấy khác xé từ cùng một quyển vở, chỉ chép có nửa trang…

Buổi tối, tôi nằm trong căn phòng tắt hết đèn, với tất cả cửa mở ra ngoài khoảng sân ngập ánh sáng và bóng tối của con trăng hạ tuần già cỗi. Có khi chồng tôi đến ngồi hút thuốc lá ở cửa sổ. Tôi chỉ thấy bóng của anh, chỉ thấy đường nét của một người ngồi được đóng khung trong thành gỗ của cửa, còn thân thể của anh thì tan vào đêm tối. Đêm tối một nửa là thực, một nửa nằm trong giấc ngủ. Và nơi anh ngồi làn khói bay lên từ cái chấm sáng của điếu thuốc lá, đàng sau là ánh trăng đang thở thật chậm, phả ra một vùng sáng mờ lặng.

Chúng tôi không nói với nhau một lời nào. Có thể anh không biết tôi đang ở trong phòng, hoặc anh nghĩ tôi đang ngủ. Tôi muốn tưởng tượng anh có một chuyện gì đó đang kể cho tôi nghe, một câu chuyện không có tiếng nói bởi vì tôi đang ở một nơi khác nên không thể nghe nó. Mà tôi đang ở một nơi khác thật, bởi vì tôi đang nghe một bài hát của Brahms, "Người thôi đã biết buồn". Tôi nhớ tới giọng hát của người đàn bà đã hát bài đó và thâu vào đĩa, tôi đang nghe nhạc bằng trí nhớ. Và tôi cứ nằm rất im, tan biến đi trong tiếng hát không có đó, trong nỗi buồn ai đó gây cho người mình yêu đã từ hơn một thế kỷ trước.


Đêm đó tôi nằm mơ thấy Anita. Không hẳn là tôi thấy chị, mà là thấy cái khung cửa sổ trước mắt chị, khung cửa nhìn ra khu rừng bên ngoài. Chị ngồi im trên chiếc ghế đặt giữa phòng quay mặt ra ngoài. Chị giữ lưng thẳng, cổ thẳng, tôi thấy gương mặt của chị, nhưng không có nét. Rồi chợt dưng tôi thấy những gì chị thấy, như chính tôi là người ngồi trên chiếc ghế đó nhìn ra ngoài. Những cây thông mầu xanh thẫm, gần như đen, đứng yên trong một ngày không gió. Bầu trời giăng đầy mây màu xám bất động, chỉ còn một chút vàng yếu ớt ở một góc xa mờ nhạt. Đóng khung trong cái khung cửa sổ bằng kính hình chữ nhật, bầu trời và rừng thông đã mất đi không gian. Chúng là một ý niệm về một ngày đông không có tuyết hơn chính chúng là cái ngày đông đó. Rồi hình như người đàn bà ngồi trên chiếc ghế cũng chỉ là ý niệm về Anita chứ không phải chính là Anita. Trong gian phòng của giấc mơ, Anita khi có khi không. Đôi khi tôi nhìn thấy cái ý niệm về chị, đôi khi tôi mất cái ý niệm đó, chỉ còn tôi trong phòng, tôi là Anita. Hay tôi không phải là chính chị, mà là cái ý niệm về chị ấy.


Hai giờ đêm tôi thức dậy nằm nhớ lại giấc mơ. Trí nhớ mông lung, chập chùng. Tôi vẫn còn ý thức, còn ý nghĩ, nhưng tôi không kiểm soát được giòng chảy của nó.

Anita đứng bên cạnh khung cửa sổ màu đen, vẫn gương mặt không nét đàng sau một làn sương.

“Chị Anita, chị đã chết rồi, chị hãy đi đi, đừng trở về, đừng làm em sợ.”

“Cô là ai mà đến nhà tôi?”

“Em là An Mi.”

“Tại sao cô chơi nhạc bằng cây đàn của tôi?”

“Chồng chị giết chị. Con trai lớn của chị hứa sẽ báo thù. Nhưng rồi nó bỏ rơi chị. Mọi người đã quên chị. Em cứ nghĩ tới chị.”

“Người ta có nhớ hay quên thì tôi cũng đã chết rồi An Mi à. Cô nhìn lại mình đi kìa: cô còn sống, cô lang thang qua bao nhiêu chuyến tàu u buồn, có ai nhớ cô không?”

“Không. Em không còn ai trên đời là người thân.”

“Vậy thì cô nghĩ tới cô chứ đâu phải nghĩ tới tôi. Cô chỉ mượn tôi để có cớ ngồi khóc về chính mình thôi.”

“Em hứa sẽ không khóc nữa.”

“Cô còn ngồi khóc như thế thì không ra đi được đâu. Còn buồn tủi, còn thương lấy tấm thân, làm sao xa rời nó đi được.”

“Em sẽ không thương thân nữa, để có thể chết được. Chị Anita ơi, nếu bây giờ có ai cho chị sống lại, chị có muốn sống lại không?”

“Sống lại? Có lại da thịt để biết ấm lạnh? Có lại đôi tay để chơi đàn? Và con tim để buồn thương?”

Tôi không ngờ câu hỏi làm cho Anita chợt run lên. Chị bàng hoàng quay đi, bước ra khỏi cửa, đi vào bóng đêm, vừa đi vừa kêu những tiếng kêu lạ lùng vừa như tiếng sói gọi trăng, vừa như tiếng hồ cầm lạc giọng. Tôi chạy theo chị để xin lỗi đã hỏi một câu như vậy. Tôi ra khỏi nhà, không còn thấy chị đâu. Tôi đi vào bóng đêm, tôi lần theo tiếng kêu vẳng lại từ một nơi nào đã xa, xuyên qua cây rừng và gió đêm, tôi đi mãi, đến lúc chính tôi cũng tan biến đi vào bóng đêm trong lúc mải mê tìm Anita.

Chợt có một người ôm lấy tôi, ý thức tôi nhạt nhòa đi, lẫn vào trong người đó, lẫn vào bóng tối, chiêm bao, giấc ngủ. Tôi vẫn còn nghe tiếng kêu như sói gọi trăng vẳng lại từ phía trước, nhưng dường như những tiếng kêu ấy là của chính tôi.


15.

Tuổi thơ nào cho Marcus

Ngày thứ ba người vợ từ căn nhà mà tôi đã hỏi đường đến thăm. Bà ấy đứng ngoài đường kêu réo vì cổng khóa và tôi đã tắt chuông. Bà ấy hỏi tôi làm gì trong căn nhà của ông Kempf. Tôi nói ông ấy nhờ tôi đến quét dọn. Tôi cầm chùm chìa khóa đặt lên bàn để bà ấy biết rằng ông ta đã đưa chìa khóa cho tôi chứ tôi không phá ổ khóa mà vào. Bà ấy hỏi tôi quen thế nào với ông Kempf. Tôi nói tôi làm việc ở Trung tâm hồi phục, nơi đang chăm lo cho ông Kempf. Bà ấy hỏi:

“Cô là bác sĩ hay y tá?”

“Y tá”

“Cô chăm sóc cho ông ấy à?”

“Vâng.”

“Bệnh tình ông ấy thế nào?”

“Gọi là Trung tâm Hồi phục nhưng chúng tôi cũng nhận những người không hồi phục. Ông Kempf thuộc về loại này.”

“Ông ấy không cử động được cả người à?”

“Cái đầu thì được.”

“Cô săn sóc cho ông Kempf thì làm những việc gì?”

“Bà có thể tưởng tượng ra được.”

“Cô cho ông ấy ăn bằng thìa hay bằng ống dẫn?”

“Tôi không nghĩ là tôi được nói về bệnh tình của bệnh nhân với người lạ.”

“Chúng tôi không phải là người lạ. Chúng tôi là hàng xóm.”

“Hàng xóm không phải là người thân.”

“Chúng tôi thân với ông Kempf hơn cô. Chúng tôi biết nhau đã gần ba mươi năm. Cô không biết từ đâu tới đây.”

Tôi không trả lời.


Tôi nghe tiếng xe gầm rú giận dữ và ngừng lại. Michael bước nhanh vào nhà.

“Nếu chị không rời khỏi căn nhà của chúng tôi ngay lập tức, tôi sẽ gọi cảnh sát.”

“Cảnh sát tới, tôi sẽ nói với họ lý do tôi ở đây.”

“Lý do nào?”

“Tôi ở đây là để tìm hiểu sự thật về những điều anh viết trong quyển sổ bìa da anh đã đưa cho tôi.”

“Tôi không có viết gì hết. Không có quyển sổ nào hết.”

“Michael, dù anh có muốn chối bỏ những điều anh đã viết vì anh muốn xóa tội cho cha, thì anh cũng phải nghĩ tới em Marcus chứ. Marcus đang rất cần một người thân.”

“Tôi cũng cần một người thân.”

“Tại sao người đó là Sophie mà không phải là đứa em trai?”

“Bà không có quyền chen vào chuyện tình cảm của Sophie và tôi. Với bà không còn một thứ gì trên đời này là thiêng liêng hết hay sao?”

Tôi thấy Michael giận dữ, anh hơi run và mặt tái đi. Tôi biết mình không thể nói gì thêm. Tôi đã thua hết, mất hết. Những tháng năm đi lầm than một mình đi tìm Marcus.

“Có, có một thứ đối với tôi là thiêng liêng trên đời này. Đó là tình anh em. Đừng bỏ rơi Marcus.”

Tôi ngạc nhiên vì chính miệng mình đã nói ra câu đó. Tôi là một cô gái mồ côi. Tất cả mọi cố gắng để có một người thân đều đã không thành. Tôi không tin ở tình yêu. Tôi biết gì về tình anh em?

“Không ai bỏ rơi Marcus. Mẹ tôi bỏ nhà đi, và dẫn nó theo rồi.”

Michael nhắc tới mẹ làm cho tim tôi chợt nhói lên. Tôi gắng nói chậm để câu nói không chứa xúc động:

“Anita đã chết rồi. Cha anh giết mẹ anh. Từ năm 13 tuổi, anh đã biết điều ấy.”

“Bà đã bị điên, chị hoàn toàn loạn trí rồi. Bà nên đi gặp một bác sĩ thần kinh, không phải là một nhà tâm lý học, mà là một bác sĩ thần kinh.

Và tôi không để cho một người điên tới chiếm ngụ bất hợp pháp căn nhà của chúng tôi. Sophie đã gọi cho cảnh sát rồi.”

Đáng lẽ tôi phải cho Michael xem cây đàn của Anita, nhắc rằng mẹ anh không bao giờ đi đâu, sống ở đâu mà không có cây đàn. Nó còn đây nghĩa là Anita chưa từng đi khỏi căn nhà này. Nhưng có một điều gì, không phải là một điều gì, mà là một ai đó ngăn tôi lại. Người đó là ai? Có thể là ông Kempf. Dù ông ấy là người thế nào, tôi cũng không thể làm sai điều quan trọng cuối cùng của một đời người mà ông đã nhờ tôi, tôi và không còn ai khác. Hay người đó là Anita. Chị không muốn cây đàn về với Michael, hay là Sophie. Cây đàn cũng có một cái hồn biết thấy tổn thương và u uẩn.


Sau khi Michael đi rồi, tôi gọi điện thoại cho nhà ga. Chuyến tầu cuối trong ngày rời Treuwasser lúc 9 giờ 40. Tôi mang theo chiếc hồ cầm của Anita. Tôi sẽ đem nó đến cho Marcus. Đấy là một cây đàn quí. Ước gì em sẽ học chơi được nó một ngày nào đó. Nếu không, nó cũng đáng giá một khoản tiền lớn khi bán đi. Tôi về khách sạn trả phòng rồi mang cây đàn và hành lý lên tầu, bỏ lại phía sau cái khung cửa sổ nhìn ra cánh rừng thông màu xanh thẫm vào những ngày không gió. Khung cửa mà trong giấc mộng của tôi, Anita đã ngồi trên ghế nhìn ra.


Tôi ngủ đêm tại München và lấy chuyến tàu sớm đến H vào lúc 7 giờ rưỡi sáng. Từ đó lên Weilenthal còn mất 17 cây số, nhưng tôi phải chờ gần 2 tiếng mới có tầu để đi tiếp. Tôi sẽ giao cây đàn cho ban hiệu trưởng Nhà nuôi trẻ tâm thần nơi Marcus đang sống. Trên suốt đoạn đường đi tôi thấy lòng hắt hiu, buồn thăm thẳm. Trước mặt tôi là khoảng trời mênh mông, không còn lại một thứ gì trên đời, không còn một tình yêu nào, một kỷ niệm nào trong tôi. Tôi sẽ khép lại cái khoảng đời hai năm tìm kiếm Marcus. Hai năm vay mượn, tôi đã sống bằng câu chuyện của người khác, đã nuôi thân thể mình bằng máu từ nhịp đập trái tim của họ, người chết và người sống. Hai năm tôi lạc vào một cuốn phim. Nhiều lúc tôi không biết mình có hiểu nó hay không. Nhiều lúc tôi không biết cuốn phim kể một câu chuyện thật về gia đình Kempf, hay là một cuốn phim về những ảo giác của chính tôi. Nhiều lúc tôi đi trong cuộc đời như người mộng du, bập bềnh ở giữa đời thật và chiêm bao. Trong khoảng đời mông lung đó, cây đàn là thật. Nó kể cho tôi nghe rằng Anita là thật. Nó nhớ lại những ngón tay của chị đã bấm trên phím, còn để lại những vết mờ trên giây đồng. Nó nhớ lại bờ vai nó đã dựa vào, nhớ hơi thở và nỗi buồn của chị. Cây đàn là vật đã gắn bó tôi với Anita. Tôi đã chơi cây đàn của chị, tưởng mình là Anita, đã mơ những giấc mơ, buồn những nỗi buồn của chị. Tôi đã mang nỗi uất ức của người chết, đã thương nhớ sự sống, quý báu cái da thịt, cái thân thể còn biết ấm lạnh. Nhưng cây đàn không phải là của tôi, tôi phải trả lại nó cho đứa con trai nhỏ của Anita. Trả nó lại rồi, tôi có còn câu chuyện nào, tình yêu nào, sự thật nào để tôi chạm lấy được? Còn kỷ vật nào cho tôi biết rằng tôi cũng đã sống trong một câu chuyện thật, dù rất buồn, nhưng là một câu chuyện thật?


Tôi xin gặp ông hiệu trưởng nhà nuôi trẻ phát triển không bình thường. Vì không hẹn trước, tôi phải chờ đến 11 giờ 30 mới gặp được ông.

“Tôi biết một đứa con trai sống dưới sự bảo bọc của mái nhà này. Tên em là Marcus Malbuchen. Tôi mang đến cho em cây đàn hồ cầm, nó là của em.”

“Nhưng Marcus đâu có biết chơi đàn. Ở đây cũng không có ai dạy đàn. Ngay cả một lớp nhạc cũng không có.”

“Đây là một vật có giá trị, mong ông cất giữ nó giùm cho Marcus. Biết đâu có ngày em sẽ học chơi hồ cầm. Hay lúc trưởng thành em có thể quyết định bán nó đi.”

“Ồ, chúng tôi không nhận đâu. Chúng tôi đâu có biết cất nó ở đâu.”

“Không lẽ trại không có một nơi cất giữ những thứ quí giá?”

“Không. Cái hộp đàn này cồng kềnh chứ có nhỏ đâu. Nếu Marcus giữ nó trong phòng, hay để ở phòng đọc sách, rơi vào tay bọn trẻ là chúng phá hỏng hay đập vỡ trong 3 phút.”

Tôi nhớ lại những năm ở viện mồ côi, giữ một cây đàn trong phòng không phải là chuyện dễ. Bọn trẻ chỉ chờ chực mở nắp hộp đàn rồi dùng hết sức lực đập các cây cung kéo đàn lên thùng đàn rầm rầm, nếu tôi phản đối, năn nỉ hay khóc lóc chúng càng làm già.

“Tôi biết làm gì với cây đàn này bây giờ?”

“Bán nó đi. Cô có thể tặng tiền cho Nhà nuôi trẻ qua Hội Bảo trợ, cô sẽ được trừ thuế. Tôi không biết cây đàn này đáng giá bao nhiêu. Nếu cô muốn dành trọn số tiền đó cho riêng Marcus thì cô có thể mở một tài khoản dành cho em, năm 18 tuổi Marcus sẽ là chủ nó. Nhưng em có được quyền dùng số tiền đó vẫn còn tùy sức khỏe tâm thần của em có cho phép em làm chủ đời mình không. Nếu không, người đại diện của em sẽ quyết định.”

“Người đó là ai?”

“Chúng tôi không biết. Hiện giờ thì sở Thanh thiếu niên là người đại diện, nhưng lúc em lớn hơn thì là một sở khác.”

“Ông không nhận giữ dùm cây đàn thì tôi đành phải mang nó về vậy.”

Tôi đứng dậy để ra về, nhưng ông hiệu trưởng không đứng dậy để tiễn tôi. Ông vẫn ngồi ở ghế và tiếp tục như thể buổi nói chuyện chỉ vừa mới bắt đầu.

“Cô có chuyện gì để kể cho tôi chăng?”

“Chuyện gì?”

“Không ai đem một cây đàn hồ cầm đến tặng một cậu bé bị bệnh tâm thần mà không có một câu chuyện đi kèm theo.”

Tôi yên lặng nhìn về hướng bức tường sau lưng ông hiệu trưởng, nơi đó có một khung cửa sổ. Tôi nhìn qua cửa sổ, ngoài xa có những cây thông trên sườn đồi nhưng mắt tôi không thấy rõ nét, chúng đứng trong một màn sương. Tôi không biết cách kể câu chuyện này, tôi đã làm mất khoảng cách giữa người kể chuyện và câu chuyện.

“Tôi có lý do để đem cây đàn tới đây cho Marcus, nhưng tôi không thể kể cho ông nghe về lý do đó. Tôi không thể bán cây đàn. Sau này Marcus không biết làm gì với nó, em có thể bán nó đi, không phải tôi. Và câu chuyện của em, tôi ước ao có một người nào kể cho em, một người nào khác, không phải tôi.”

“Cô nghe đây: Marcus bị chứng PTSD rất nặng vì đã trải qua những ngày khủng khiếp. Em bị mất trí nhớ và mất khả năng giao thiệp với người chung quanh. Cô sống ở một nơi gọi là trái đất. Còn Marcus, em tự cô lập mình, sống ở một nơi gọi là mặt trăng, trên đó rất lạnh, rất trống, hoàn toàn vắng người. Để giúp các bác sĩ thần kinh và các nhà phân tích chữa bệnh cho em, chúng tôi cần thu thập tất cả những gì chúng tôi có thể biết về lịch sử của Marcus, chuyện gì đã xảy ra với em. Các bác sĩ chỉ hy vọng chữa được bệnh nếu họ biết phải bắt đầu từ đâu. Sở Thiếu niên và Tòa án cũng cần xác nhận lai lịch của em. Từ hơn ba năm nay, những gì chúng tôi thu thập được là không. Chúng tôi không biết em là ai. Hôm nay cô tới với một món quà rất lạ, rồi cô nói cô biết câu chuyện của Marcus, nhưng không kể được. Cô tưởng chúng tôi sẽ để cho cô ra về trước khi kể nó sao?”

Tôi chơi vơi. Kể lại câu chuyện này là việc quá sức tôi. Tôi không còn quyển sổ của Michael, không còn lời thú tội của ông Kempf, tôi chỉ còn lại sự thật của riêng tôi, tôi biết rằng nó đúng, nhưng nó mong manh, họ chạm vào, nó sẽ vỡ. Sự thật đó, tiếng kêu của một loài chim nhỏ dưới một bầu trời mây vần vũ u buồn của Anita, là điều tôi không thể chia sẻ được với ông hiệu trưởng, các bác sĩ, các nhân viên sở Thiếu niên và các thẩm phán ở tòa án. Tất cả những người tôi gặp trong làng đều chống lại Anita, với họ, chị nghiện rượu và lang chạ. Tôi đưa em trở về cái quê hương ấy, với một người cha sát nhân nay đã bán thân bất toại, với một người mẹ đã bị giết hai lần, một lần bởi người cha đó, bằng một con dao, và một lần sau đó bởi những người khác, bằng lời nói. Để làm gì, và điều đó giúp gì được cho em bình phục?

“Ông không muốn nhận dùm cây đàn, thì tôi mang nó về. Ông cứ xem như tôi không hề đến đây sáng nay. Tôi xin lỗi vì một tiếng đồng hồ ông mất để tiếp tôi.”

“Cây đàn – lúc nãy cô có nói là nó rất quý – hoàn toàn không có nghĩa lý gì hết. Nó chẳng giúp gì được cho Marcus. Em không cần nó. Câu chuyện mà cô biết nhưng không muốn nói, nó có thể cứu em. Đó mới là món quà quí mà chúng tôi muốn nhận thay cho em, không phải cây đàn.”

“Tôi xin lỗi phải làm ông thất vọng. Tôi không có câu chuyện nào để kể.”

Ông hiệu trưởng ngưng một phút rồi bắt đầu lại:

“Cô biết cha mẹ ruột của Marcus phải không?”

“Không.”

“Cây đàn này từ đâu ra?”

“Nó là của tôi?”

“Cô mua nó hay ai tặng nó cho cô?”

“Một người bạn gái rất thân tặng cho tôi?”

“Người bạn gái đó là ai?”

“Nếu ông muốn thì hãy gọi cho cảnh sát, nhờ họ giữ tôi lại, hỏi cung chuyên nghiệp hơn. Nhưng tốt hơn ông nên tin tôi rằng tôi không có câu chuyện nào về Marcus có thể giúp em bình phục cả. Tôi chỉ là một người lạ.”

“Nếu cô nhất định không chịu giúp chúng tôi thì cô mang cây đàn về đi và nhớ là chúng tôi không có lý do gì để tiếp cô một lần nữa dưới mái nhà này. Đừng đến nữa.”

“Tôi không có ý định trở lại. Nhưng xin ông cho tôi gặp Marcus một lần này thôi.”

“Để làm gì?”

“Ông không cho thì thôi vậy.”

Tôi đứng dậy, khiêng cái hộp đàn đi ra khỏi cửa. Khi tôi ở ngoài hành lang rồi, ông hiệu trưởng mới nói:

“Nếu cô không chê thức ăn ở căng tin thì tôi xin mời cô buổi trưa.”

Ông giúp tôi đem cây đàn trở vào phòng. Ông khóa cửa và chúng tôi đi đến căng tin.

Phòng ăn có những khung cửa rộng nhìn ra những ngọn đồi, bên ngoài trời không có nắng, những ngọn đồi ở xa tan dần vào làn sương nhạt. Ông hiệu trưởng hỏi tôi từ đâu đến, tôi nói tôi không có một quê hương nào, hoặc có, mà tôi không biết. Tôi định nói tôi cũng lớn lên từ những viện mồ côi, nhưng tôi không nói. Trong bữa ăn, chúng tôi yên lặng.

Sau bữa trưa, ông hiệu trưởng đồng ý cho tôi gặp Marcus. Ông đưa tôi đến phòng học, chúng tôi đứng ngoài hành lang nhìn vào. Marcus vẽ màu sáp lên những tấm thẻ, và sắp xếp chúng theo một thứ tự nào đó. Trông em hơi buồn, nhưng bình thường và đáng yêu hơn tôi tưởng. Ông hiệu trưởng xin phép cô giáo cho em ra khỏi lớp. Chúng tôi đi về phòng em. Ông hiệu trưởng giới thiệu tôi:

“Đây là cô An Mi.”

Marcus không nhìn tôi. Em đến ngồi ở mép giường. Em thấy bất an vì có người lạ. Đôi mắt của em đẹp, em thu hút tôi, có lẽ vì cái khoảng không buồn buồn của em, có lẽ vì em sống ở một nơi lạnh và vắng, ở mặt trăng, như ông hiệu trưởng nói. Tôi cũng thấy bất an.

Không hỏi ý tôi trước, bất ngờ ông hiệu trưởng nói:

“Cô An Mi có mang đến một cây hồ cầm để chơi nhạc cho em nghe. Em có muốn nghe không?”

“Có.”

Marcus trả lời có vì nói có dễ hơn nói không. Tôi biết em chẳng suy nghĩ gì.


Ông hiệu trưởng đi lấy cái đàn. Chỉ còn lại tôi và Marcus trong phòng. Em tránh mắt tôi, mải nhìn cái khung cửa nơi ông hiệu trưởng đã đi ra.


Tôi lấy đàn ra và lên giây. Trong hộp đàn có quyển sách nhạc của Anita. Tôi mở ra tìm một đoạn quen của Dvorak, một đoạn Anita đã chơi và ghi chú bằng viết chì lên bản nhạc. Không có giá để bản nhạc, tôi nhờ ông hiệu trưởng đặt ghế ngồi đối diện tôi, cầm bản nhạc để mở trước mặt tôi.

Marcus không bao giờ nhìn tôi, nhưng khi bản nhạc hết, em chợt quay đầu nhìn cái đàn chăm chăm. Tôi hỏi em:

“Em có muốn lại gần đây xem cây đàn không?”

Marcus lắc đầu. Tôi dựng cây đàn vào tường và trở lại ngồi trên ghế. Tôi muốn nhìn em, nhưng tôi đành lơ đãng nhìn ra cửa sổ, vì tôi biết em tránh ánh mắt tôi. Marcus ngồi nhích dần tới chân giường, nghĩ ngợi một lúc rồi đứng dậy đi tới chỗ tôi dựng cây đàn. Những ngón tay em chạm lấy đường cong của thân đàn, rồi em vuốt nhẹ lên mặt gỗ. Có một thoáng gì như là ánh sáng trong mắt em. Trong một giây, dường như em vừa tìm được một vật của quá khứ, một dấu vết dẫn em về một tuổi thơ có mẹ.

Nhưng cũng có thể chỉ do tôi tưởng tượng mà thôi.

Ông hiệu trưởng hỏi Marcus:

“Con thấy bài nhạc có hay không?”

Marcus không trả lời.

“Con có muốn mai mốt cô An Mi đến đàn cho con nghe nữa không?”

Marcus nói nhỏ:

“Không.”

Rồi em lập lại ba lần, mỗi lần em lại nói lớn hơn lần trước một chút:

“Không. Không. Không.”

Em muốn người ta hiểu thật rõ câu trả lời.


Ở văn phòng tôi nói với ông hiệu trưởng:

“Xin ông giữ giùm cây đàn cho Marcus. Ông nói là ông không biết cất nó ở đâu, nhưng tôi biết nếu ông muốn, ông sẽ tìm được chỗ.”

“Tôi không muốn.”

“Tại sao?”

“Trao được cây đàn cho tôi rồi cô sẽ không quay lại đây nữa.”

“Nếu tôi cứ để nó đây và đi về thì sao?”

“Tôi sẽ đi theo cô.”

Tôi không nói gì.

“Hãy hứa là cô sẽ trở lại.”

Tôi vẫn không nói gì.

“Tôi sẽ nói chuyện với bác sĩ của Marcus để nghe ý của ông ấy về chuyện này. Cô sẽ trở lại, cô hứa với tôi đi.”

“Tôi phải đi xa. Trước khi đi tôi mang cây đàn đến cho em. Nếu các ông không nhận thì tôi vẫn phải đi.”

“Tôi biết là cô sẽ trở lại. Và cô biết rằng tôi chờ. Marcus cũng vậy. Chúng tôi luôn luôn chờ cô trở lại.”


16.

Đêm dài không chiêm bao

Tôi về đến khách sạn lúc 7 giờ chiều. Tôi bỏ bữa ăn tối, đi ngủ sớm. Lúc nằm mơ màng giữa thức và ngủ, tôi cảm thấy tôi sẽ nằm mộng thấy Anita. Tôi tin chắc chị sẽ về, và nếu trên đời này không có hồn ma thì một Anita làm bằng ký ức của tôi về chị sẽ về trong giấc ngủ. Chị phải đến, để tả cho tôi biết tình yêu và nỗi buồn khi chị gặp lại đứa con trai nhỏ ở Nhà nuôi trẻ. Tôi biết chị đã cùng với tôi đi đến đó. Từ lúc tôi nhìn thấy cây đàn hồ cầm ở dưới hầm nhà chị, chị không bao giờ rời tôi. Chị ở bên tôi, hay ở trong tôi, hay tôi đã tan biến vào chị, từng khoảnh khắc.

Lúc nhìn thấy Marcus, tôi không biết tình cảm của mình. Tôi nhìn thấy một đôi mắt đẹp, một gương mặt buồn bã đang ở rất xa, một nỗi bất an không tên, và tất cả những thứ khác đều không tên. Tôi cũng thấy bất an, nhưng không phải vì em không nhìn tôi, mà vì tôi không biết tình cảm của mình. Tôi biết em là đứa con trai nhỏ của Anita, nhưng tôi không biết với tôi em là ai. Tôi có yêu mến em không? Lúc ông hiệu trưởng đi lấy cây đàn, để Marcus và tôi một mình trong phòng, cả hai đã giả vờ nhìn vào một thứ gì đó để không thấy người kia, cái khoảng cách giữa chúng tôi đã được canh giữ rất cẩn thận. Nếu ông hiệu trưởng đi lâu hơn nữa, khoảng cách ấy sẽ bớt đi hay sẽ lớn lên mỗi giờ? Tôi sẽ thoáng thấy chút thương mến, hay chỉ có xa lạ?

Anita, chị phải về, phải nói cho tôi biết. Khi người mẹ gặp lại con mình sau cuộc chia lìa tang thương ấy, tình cảm của người mẹ như thế nào. Về để chỉ cho tôi thấy tình mẹ con, điều tôi chưa từng thấy. Về để nhập vào tôi, tự nhốt mình trong cái lồng ngực của tôi để nhớ lại hơi thở và cảm xúc. Về để yêu Marcus bằng trái tim còn đập của tôi, khóc bằng đôi mắt còn có tuyến nước mắt. Nói cho tôi biết nó như thế nào: những thương lo se sắt, những rung động mãnh liệt, những đau đớn buốt người, những ước vọng được ôm siết lấy tấm thân cậu bé trong lòng. Tôi đã lặn lội một mình đi tìm em suốt hai năm. Tôi đã đem về những bức ảnh của em cho người thân. Cha của em nói biết đâu nó là con của người khác. Anh của em không muốn nhìn những tấm ảnh đó. Mẹ em thì chết rồi. Tôi phải làm gì với em bây giờ? Về để dạy cho tôi yêu Marcus, tình yêu là điểm bắt đầu của mọi cuộc hành trình.

Hãy dạy cho tôi biết tình yêu, và câu chuyện của tôi sẽ có một kết thúc tốt đẹp như bất cứ một cuốn tiểu thuyết tốt đẹp nào. Tôi sẽ trở lại Nhà nuôi trẻ, với tiếng đàn của mình và với câu chuyện của Marcus mà bây giờ chỉ còn một mình tôi biết, tôi giúp em, giúp các bác sĩ giúp em, nhặt lại những vết tích của tuổi thơ mình một cách cẩn trọng. Dần dần – em có thời gian, em không phải vội – Marcus hiểu được lai lịch của mình và chấp nhận nó. Rồi em chấp nhận chính mình, chấp nhận nơi chốn mà em đã đi đến và đang đứng trong đời. Em nhặt nhạnh từng chút sự an tâm, từng chút lòng tin, để trở lại thế giới của loài người. Tôi gắn bó với em, và qua em gắn bó với cuộc đời. Vai tôi nhận một ít trách nhiệm, tim tôi chứa một ít tình thương, đủ để chính tôi cũng trở lại thế giới của loài người.Tôi sẽ tổ chức lại cuộc đời của mình trên mặt đất: một mái nhà và địa chỉ không hay thay đổi, một công việc làm, một mục đích sống, một nề nếp, một sự tuân thủ cần thiết các giá trị bình thường. Tôi thực hiện được các điều kiện Sở thanh thiếu niên đòi hỏi để tôi có thể nhận Marcus làm con nuôi. Tôi tạo được một nơi chốn bình yên để đón em về. Tôi sẽ khai thuế và đóng bảo hiểm, có thể sẽ lấy chồng, sẽ đi họp phụ huynh, có người quen trong thành phố. Chiều chủ nhật tôi sẽ mời họ đến nhà dùng cơm. Khách sẽ mang đến một bó hoa, hoặc một chai rượu. Chúng tôi sẽ nói chuyện, nói chuyện. Nói chuyện cho đến khi tất cả khoảng không của thế gian đã được rót đầy bởi tiếng người muôn đời rì rào, niềm im lặng bất an đã chết. Tôi sẽ đọc truyện cho Marcus, sẽ đi dạo với em ở ven sông, có thể tôi sẽ dạy nhạc cho em mỗi tuần hai buổi. Tôi sẽ là cha nuôi của Marcus, làm cho em những điều cha nuôi tôi đáng lẽ đã làm cho tôi, nhưng ông không làm, ông bỏ cuộc nửa chừng, vì quá buồn. Tôi sẽ là mẹ ruột của em, làm cho em những gì Anita đáng lẽ đã làm cho em, nhưng chị không làm, chị bỏ cuộc nửa chừng, vì chị muốn bỏ đi. Những con đường đời đi qua vùng núi đá và chốn đầm lầy, đi qua những đêm bão rớt và những ngày không gió, họ đã bỏ dở, và tôi sẽ bắt đầu lại nơi họ đã để cho buông rơi vào yên lặng.

Tôi thức giấc lúc quá nửa đêm, có lẽ 2 hay 3 giờ sáng. Tôi nằm mở mắt nhìn lên khoảng trần nhà vôi trắng mờ mờ tối phía trên. Tôi cố nhớ lại giấc ngủ mới qua, cố nhớ lại những giấc mơ trong đó. Anita không về. Hình như trong một giấc mơ rất ngắn, tôi thấy chị rửa mặt cho Marcus, chị vuốt mặt em bằng bàn tay đầy nước. Chỉ có một hình ảnh, không có một tâm trạng, một lời lẽ, một ý nghĩa nào đi kèm với nó. Có thể là hình ảnh ấy tôi đã thoáng nhớ từ một cuốn phim nào đó đã quên, nó chập chờn trong giấc mộng và tôi cho rằng gương mặt của cậu bé ấy là của Marcus, và bàn tay là của Anita.

Tôi đến đây từ một miền đất tôi không biết. Tôi mồ côi, không có quá khứ, tình yêu, ước mơ, tôi không có một cái tên, chân dung hay linh hồn. Tôi là một gian nhà trống. Tôi không bị chứng mất trí nhớ như Marcus, nhưng tôi không có gì để nhớ. Ký ức về người cha nuôi tự tử trong nhà thờ và người chồng lái xe đi vào một đám sương mù trên núi không phải là thứ ký ức làm nên linh hồn. Tôi đã quên lãng nó. Tôi không có một câu chuyện nào để sống trong đó. Tôi đang nhặt lấy câu chuyện của Anita, tưởng nó là của mình. Chị có kỷ niệm, có tình yêu cho các con, cho âm nhạc và những giấc mơ về những nơi chốn mà chị định đi đến. Những vùng đất chưa có tên nhưng đã trở thành một thứ quê hương mong ước cho trái tim đầy ước vọng.Tôi sẽ lấy tên chị, mơ những giấc mơ của chị, nuôi đứa con nhỏ của chị, chơi cây đàn của chị. Tôi sẽ sống cuộc đời mà Anita đã bỏ dở, tiếp tục nó với đôi chút phương hướng và sự yên lành.

Có lẽ đã gần ba giờ sáng, cái giờ yên vắng lúc đêm chưa qua. Tôi còn bập bềnh ở một nơi thinh vắng, trôi trong nỗi yên ả của khoảng không và sự vô cảm. Nhưng đêm sẽ qua, nó đang mất đi. Mặt trời sẽ lên và tôi sẽ phải biết làm gì với cái ngày sắp tới đó. Tôi chợt nhận ra rằng mình không biết làm gì vào ngày mai này và tất cả mọi ngày mai sau đó. Nỗi thảng thốt chợt đến, chợt bùng ra. Mới đây tôi còn yêu thương Anita biết là bao, mới đây tôi còn nghĩ chúng tôi là hai chị em, hơn như vậy nữa, tôi nghĩ tôi sẽ bỏ cái tên An Mi, Anna Michaela Wienandski, để lấy tên Anita. Nhưng chợt có một thứ tiếng nói vang lên từ một góc nào đó, tiếng nói thuộc về cái phần lặng lẽ nhưng mạnh mẽ hơn sự kiểm soát của ý thức tôi, nó quyết liệt đánh đuổi Anita. Tôi không phải là chị, không thể là chị, muôn đời tôi không thể là ai khác tôi. Thân thể tôi, tâm trí tôi, dù nó vắng ngắt, nó cũng không cho hồn ai đến ngụ. Dù Anita có một linh hồn và không có mái nhà nào, dù chị không biết về đâu, cũng đành. Dù chị có một câu chuyện chưa kể hết, cũng đành. Chị phải bắt đầu hiểu cái chết là gì. Nó có nghĩa là không còn ai tiếp tục làm điều mình bỏ dở, nó nghĩa là câu chuyện bị cắt ngang một cách tuyệt đối. Không có ai sẽ tìm cho nó một ý nghĩa, một kết luận nào nữa.

Tôi mở nắp hộp đàn, lấy ra cây hồ cầm. Tôi muốn chơi một khúc, tôi nghĩ tới một đoạn andante của Bach. Làm sao tôi biết được Anita đã từng chơi nó không. Tôi nhớ ra rằng bây giờ còn là đêm, có thể phòng bên cạnh sẽ nghe thấy tiếng đàn và thấy phiền. Tôi dựng cây đàn ở tường, bên cạnh bàn viết và chiếc ghế, rồi trở lại giường nằm. Có lẽ tôi nên ngủ một chút. Tôi nhắm mắt lại. Giấc mộng chập chờn tới, tôi vừa nằm mơ, vừa biết mình đang ở trong phòng khách sạn và biết đêm đang sắp qua rồi. Chợt tôi nghe tiếng đàn, bản nhạc lúc nãy tôi nghĩ trong đầu và định chơi. Tiếng đàn không lớn, nhưng rất rõ. Tôi quay mặt về chỗ tôi đã dựng cây đàn và tôi thấy – tôi không biết hình ảnh của Anita đến với tôi bằng thị giác hay cảm giác – chị đang ngồi đó, cầm cái cung và đang kéo đàn, tóc chị mong manh buông xuống và lẫn vào bóng tối. Tôi vừa bị quyến rũ, vừa thấy sợ ghê gớm. Tôi muốn vùng ngồi dậy và thoát khỏi cơn mơ – vì tôi biết chị thuộc về giấc mơ, dù chị đang ngồi trong gian phòng thật và ánh sáng thật – nhưng có một cái gì làm tôi không cử động được. Tiếng đàn vang lên từng câu, u buồn và đẹp đẽ rợn người. Tôi nằm im, nín thở vì xúc động và vì sợ, nhưng có lẽ nỗi sợ to lớn hơn.

Cuối cùng tôi ngồi dậy được. Chị Anita không còn đó. Không gian như còn một chút hương u hoài và lạnh lẽo của cõi âm. Cây đàn vẫn dựng ở tường, bên cạnh bàn viết. Nó đầy hồn ma và đầy những bất trắc, đêm đêm nó có thể vang lên bất cứ lúc nào, dù tôi có chạm tới nó hay không.

Tôi thấy buồn bã và có một tình cảm giống như là tuyệt vọng, hoặc là sợ hãi, tôi không biết, không còn phân biệt được nữa. Tôi đến bàn viết, lấy giấy viết một cái thư rất ngắn cho ông hiệu trưởng Nhà nuôi trẻ.

Gia đình Kempf ở số 17 đường Moosbach, Treuwasser.

Cha của Marcus, Herman Kempf, hiện đang được điều trị ở Trung tâm Phục hồi thuộc bệnh viện tỉnh. Em có một người anh trai tên là Michael Kempf.

Cây đàn này của Anita Kempf, mẹ của Marcus. Có lẽ bà đã chết. Có lẽ chồng bà giết bà. Có lẽ Marcus đã trông thấy và bỏ chạy vào rừng vào một đêm tháng giêng, trời lạnh âm nhiều độ. Em mất trí nhớ có lẽ từ hôm đó.

Đây là một cây đàn trình diễn, có lẽ được làm ở một tỉnh phía đông, có lẽ Leipzig, cách đây 150 năm. Trị giá nó chừng 40 ngàn Đức mã, nhưng cũng có thể 80 ngàn. Mong ông hiệu trưởng gìn giữ nó giùm cho em Marcus với nhiều cẩn trọng.

Lúc đọc lại, tôi gạch bỏ tất cả các chữ “có lẽ” trong bức thư. Tôi bỏ nó vào bao thư, dán lại, đề tên và địa chỉ ông hiệu trưởng bên ngoài. Tôi cất cây đàn vào hộp. Tôi nhớ tới bàn tay của Marcus lúc em đến gần chạm lấy cây đàn và tôi thấy buồn cho em khủng khiếp, đến nỗi trong một giây tôi nhầm lẫn nỗi buồn ấy với tình yêu. Tôi bỏ phong thư vào hộp đàn và đậy nắp lại.

Tôi nhìn đồng hồ, 3 giờ 40.

Tôi không thể giữ cây đàn này thêm một phút nào nữa. Nó làm tôi sợ. Tôi mặc áo vào và khiêng cái hộp đàn xuống quầy tiếp tân khách sạn.

Ở dưới đó vắng tanh. Tôi nhấn cái chuông ở quầy, và đứng chờ. Và nhấn chuông, và chờ. Cuối cùng có một cô gái đi ra.

Tôi nói:

“Tôi muốn nhờ khách sạn gọi cho dịch vụ đóng thùng và gửi cây đàn đến địa chỉ này...”

“Thưa bà, xin bà chờ đến mai, bây giờ mọi người chưa ai đi làm.”

“Cô nhận giùm tôi, rồi bao giờ họ gửi cũng được, đây là địa chỉ.”

“Bà để cây đàn ở đây, rồi sáng mai xuống, người ta sẽ gọi điện cho các hãng chuyển hàng và cho bà biết giá. Bà sẽ chọn gửi bằng cách nào”

“Tôi phải trả phòng và đi ngay bây giờ. Tầu của tôi sắp đi.”

“Tôi không thể nhận đâu, lỡ các hãng chuyển hàng không nhận vì nó to quá thì sao. Hoặc là giá tiền cao quá.”

“Cô giúp tôi giùm. Gửi cách nào cũng được, giá nào cũng được, tôi cần phải gửi nó trước khi lên tầu.”

“Bà chờ một chút để tôi hỏi.”

“Hỏi ai?”

“Hỏi người trưởng ca trực đêm nay. Bổn phận của tôi chỉ là nhận và giao chìa khóa.”

Cô gái đi vào trong. Một lúc sau, cô đi ra.

“Được rồi, chúng tôi giúp bà lần này. Nhưng lần sau xin bà làm việc với ca trực ngày. Ca đêm chúng tôi rất ít người, và có nhiều chuyện chúng tôi không thể giải quyết được.”

Tôi giúp cô mang cây đàn vào bên trong quầy. Tôi đưa thẻ tín dụng, cô gái in xuống giấy và đưa cho tôi ký, để trống khoản tiền cần được trả.

Tôi trở lên phòng, sắp quần áo vào va li, rửa mặt, đánh răng, thay áo rồi trả phòng lúc trời vẫn còn tối. Tôi không định trước sẽ trả phòng sớm như vậy, cũng không hề định trước sẽ làm gì, nghĩ gì trong ngày sắp tới. Chỉ vì cần đem cây đàn đi khỏi phòng ngay, tôi đã nói dối với cô gái là tôi sắp lên tầu, nên bây giờ tôi phải đi.

Tôi đến sân ga tìm bất cứ một chuyến tầu nào đi đến bất cứ một nơi nào thật xa. Chuyến tàu viễn hành đi lên phía bắc vừa đi không lâu, và bây giờ không có chuyến nào đi xa trong vòng 4 tiếng. Tôi đi ra băng ghế ngồi chờ. Sân ga vắng, sương đêm làm mờ đục ánh sáng trắng của những ngọn đèn giăng trên cao. Cảnh như không thực.

Trong 4 tiếng này tôi sẽ ngồi nghỉ, mọi việc đã xong. Nhưng tôi thấy cơ thể dại đi vì mệt. Cả người tôi bất an, ruột tôi quặn lại, tôi lạnh và buồn nôn. Tôi thấy đau đớn, không còn là nỗi đau đớn trong lòng mà là trên thân thể, khi đầu óc tôi mờ đục không còn ý nghĩ nào. Tôi đang quay về với những chuyến xe lửa cuối cùng, về với khoảng không, với cái chết. Tôi chợt biết sự quay về đó gây đau đớn. Tâm trí tôi đã dừng lại, bất động, không còn có thể nhận lấy nỗi đau đó nữa. Nó đi vào gan ruột, da và thịt tôi. Tôi thấy buốt khắp người.

Tôi lấy taxi mang hành lý trở lại khách sạn. Tôi cần một chiếc giường. Trong một giờ, hoặc là một tháng. Tôi không biết.

Khi tôi bước xuống taxi trước cổng khách sạn tôi thấy cô gái trực đêm ôm chiếc hộp đàn hồ cầm đi ra, nơi có một chiếc xe trắng đang chờ. Một người đàn ông bước ra mở cửa sau của xe, và họ đặt cây đàn vào trong. Người đàn ông lái xe đi. Chiếc xe biến đi khỏi tầm mắt của tôi rất nhanh. Thành phố nằm trong một đám sương mờ trắng.

Trong một phút đó, tôi không thật sự biết mình thấy gì. Nhưng khi xe đi rồi thì tôi nghĩ là tôi biết người đàn ông đó, dù tôi không thấy mặt, nhưng tôi biết dáng người ấy. Tôi cũng đã thấy chiếc xe ấy rồi. Ở đâu?


Tôi bước vội theo cô gái vào trong.

“Cô cho tôi biết, người đàn ông đi chiếc xe trắng lúc nãy là ai?”

“Anh ấy là một nhân viên khách sạn.”

“Anh ấy tên gì?”

“Kahn.”

“Anh ấy làm ở đây lâu chưa?”

“Tôi không rõ bao lâu, anh ấy vào làm ở đây trước tôi.”

“Tại sao cô đưa cây đàn cho anh ấy. Anh ấy chở cây đàn đi đâu?”

“Chính bà nhờ chúng tôi đi gửi cây đàn mà. Anh ấy hết ca. Trên đường về, anh ấy nhận chở cây đàn ra bưu điện.”

“Tại sao cô để cho anh ấy chở cây đàn ra bưu điện? Tôi nghĩ là một hãng vận chuyển sẽ đến đây lấy nó chứ.”

“Xin bà yên lòng, gửi cách nào thì cũng đến tay người nhận thôi.”

Một chuyện rất sai vừa xảy ra, tôi chỉ biết vậy, tôi lo lắng mà không nói tên cái điều sai ấy ra được. Đành bỏ dở những câu hỏi. Tôi thấy mình lạnh, và rất yếu.

“Tôi bị lỡ chuyến tầu rồi. Cô cho tôi lấy lại phòng. Tôi cần ngủ một chút”

Cô gái đi lấy chìa khóa đưa cho tôi.

“Bà ở lại chờ chuyến tầu kế? Bà có cần chúng tôi đánh thức?”

“Không. Tôi có đồng hồ báo thức, tôi sẽ tự lo. Cũng có thể tôi đi chuyến ngày mai. Hoặc ở lại vài hôm…”

Không thích cái không gian kín bưng trong chiếc thang máy, tôi đi bộ lên cầu thang. Tôi không suy nghĩ, đầu tôi trống và buốt. Nhưng chợt dưng tôi nhớ lại tôi đã thấy chiếc xe trắng ở đâu. Nó nằm trong sân nhà của Sophie. Và người đàn ông trẻ lái chiếc xe ấy là Michael Kempf. Trong lúc nghĩ như vậy, chân tôi vẫn bước. Dưới chân một bậc thang chợt chao đi, biến mất, và tôi ngã xuống. Tôi ngất đi.


Tôi ngủ dường như rất lâu, không mộng mị. Khi tôi thức dậy, các cô y tá nói tôi đã hôn mê trong 6 ngày. Một bác sĩ trẻ đến đặt những câu hỏi kiểm điểm ký ức của tôi. Tôi nói với anh ta tôi vẫn còn nhớ tất cả mọi chuyện.

Các bác sĩ nghĩ tôi ngã vì rối loạn tiền đình. Tôi ngã 17 bậc thang. Không có gì nghiêm trọng đã xảy ra. Họ quyết định giữ tôi lại bệnh viện một tuần để quan sát. Tôi nằm và chỉ thấy lênh đênh, chứ không buồn. Tôi không nghĩ tới gì, chỉ nghĩ tới con số 6. Tôi đã ở đâu trong 6 ngày qua? Không có nơi chốn, thời gian và ý thức, cũng không có bóng tối và giấc ngủ. Không có tôi. Rồi chợt nhiên tôi lại ở đây.

Một tuần ở bệnh viện giống như ở một sân ga chuyển tầu, nơi tôi để mất hành lý và mất cả cái tên của thành phố ở cuối chặng đường tiếp theo. Tôi nằm nhìn lên khoảng trần nhà mầu trắng phía trên, thường thường không rõ nét, và biết rằng trí nhớ của tôi đang rời xa tôi, những câu chuyện giống như những cây cỏ trong một giòng nước trôi chậm, lặng lờ và mông lung, chúng dần loang ra và mất đi sự liền lạc. Tôi còn lại những mảnh rời, đôi ba hình ảnh, ấn tượng, hay cảm giác, nhưng tôi đang dần mất đi sự tương quan và ý nghĩa của những mảnh ký ức đó.

Những câu chuyện trước đây 6 ngày đã lùi xa về phía bên kia những đám mây trời. Nỗi buồn của Anita vẫn còn đó, nhưng nó giống như nỗi buồn len lỏi giữa những chữ của một bài thơ in trong một cuốn sách đã cũ. Chị đã chết rất lâu. Lúc còn sống chị có một cây đàn hồ cầm. Nó đâu rồi? Tôi nhớ hình như tôi đã gửi nó cho đứa con trai nhỏ của chị. Nhưng có một điều gì đó đã xảy ra, và cây đàn sẽ không đến tay Marcus. Điều gì? Nếu gắng một chút nữa thôi thì tôi sẽ nhớ ra, nhưng tôi không nhớ. Tôi chỉ man mác biết rằng cây đàn đã mất và Marcus sẽ không bao giờ nhìn thấy nó. Còn Marcus, em là ai? Marcus có một đôi mắt đẹp mở vào một khoảng trời xa, và trống. Em không ở thế giới này. Em ở một nơi khác, tôi không thể đến gần. Và tại sao tôi lại muốn đến gần em? Tôi là gì của Marcus? Tôi không là gì của em cũng như tôi chưa bao giờ là gì của ai trên mặt đất. Trong cuộc đời êm đềm ngoài kia, những đồ vật, những khoảng khắc, những con người được gắn lại với nhau bằng tình yêu và ý nghĩa. Marcus và tôi là những kẻ luôn luôn đứng ở bên ngoài những cánh cửa của cuộc đời ấy. Chúng tôi là những đứa trẻ mồ côi không quen biết gì nhau.


Bây giờ tôi thấy buồn vô hạn vì tôi đã làm mất cây đàn của em rồi. Nhưng tôi không nhớ ai đã lấy nó, và họ mang nó đi đâu. Không phải tôi làm mất một cây đàn đã được làm từ hai trăm năm trước, nếu tìm được đúng người, có thể bán được ngần ấy tiền. Tôi đã làm mất câu chuyện của em, điều một ngày nào đó đáng lẽ sẽ trở thành một thứ keo gắn những mảnh vỡ của cuộc đời em lại, và gắn em vào mặt đất này, vào cuộc đời ở đây dù nó rất buồn, chứ không ở một nơi xa và hoàn toàn vắng như mặt trăng.


Một tuần đã qua, anh bác sĩ trẻ đã phỏng vấn để kiểm điểm trí nhớ của tôi hứa đưa tôi ra nhà ga. Anh ấy hỏi giờ chuyến tầu của tôi. Tôi nói tôi sẽ ra ga và chờ chuyến tầu kế đó, tôi không cần biết trước vào giờ nào. Anh hỏi tôi, không có người nào đợi tôi ở nơi tôi đến hay sao. Tôi không trả lời anh.


Đêm cuối ở bệnh viện, trong lúc ngủ chập chờn, tôi nghe có ai gọi tôi. Tôi thức dậy, lắng nghe, cố nhớ lại giọng người gọi là ai. Lâu lắm rồi không có ai nhắc đến tên An Mi, bây giờ có tiếng người gọi tôi, và cũng không phải bằng tên này. Nhưng sao tôi lại biết gọi tôi? Đêm sâu hơn, tôi lại nghe tiếng gọi đó một lần nữa, khẩn khoản hơn, và tôi vẫn không biết người gọi là ai. Hẳn nhiên người đó không có trong phòng. Hẳn nhiên, người đó đứng gọi tôi từ một nơi nào đó trong ký ức. Người đó muốn nhắc tôi nhớ một chuyện gì đó, đi tới một nơi nào đó. Tôi quay nhìn nhưng không thấy mặt ai. Giọng người ấy lạ, nhưng rất thân, tôi tưởng như tôi đã luôn luôn biết người ấy và bây giờ tôi sắp nhớ ra người đó là ai, chỉ chờ một lớp sương mỏng tan đi, thì tôi nhớ. Nhưng tôi càng cố nhớ thì làn sương man mác ấy càng mông lung hơn.


17.

Và khi tro bụi rơi về

Tôi muốn viết một câu cuối cùng chiều nay, nhưng trong hành lý của tôi không có một một trang giấy trắng nào. Tôi sẽ không đi tìm một quyển sổ nào nữa. Lần trước, tôi mong mỏi, tôi nghĩ mình nhất thiết phải viết, và không hề nghĩ viết cho ai. Đến khi có được những trang giấy thì tôi không có gì để viết. Những trang giấy chỉ làm cho tôi hiểu rằng cả cuộc đời của tôi chỉ ghi lại được có mấy giòng chữ quạnh quẽ, không đủ để làm đầy nửa trang của một quyển sổ có bìa da rất đẹp. Rồi tôi bắt đầu đọc câu chuyện của một người khác, mượn nó làm câu chuyện của mình để sống trong hai năm. Ở đoạn cuối, hình như người đã đưa câu chuyện ấy cho tôi đến lấy nó lại. Như thế nào, tôi không nhớ. Hình như người ấy chở câu chuyện ấy đi bằng một chiếc xe mầu trắng. Hình như thành phố phủ đầy sương. Hình như không có thành phố nào, chỉ có một vùng sương.

Trước khi chết, tôi muốn trở về với câu chuyện thật của mình. Tôi vẫn còn muốn viết một câu nào đó, một câu nữa thôi, một dấu vết để lại. Con sói đã đi qua cánh đồng tuyết, sức nặng của nó đã làm cho tuyết lún xuống thành những vết cô độc trải dài về cuối tầm mắt. Tôi muốn mình cũng có cái sức nặng của thân thể con sói, sức nặng đủ để lưu lại những dấu chân, cho dù khi mặt trời lên những dấu chân ấy sẽ mất. Tôi không muốn mình không trọng lượng và rồi sẽ tan như khói. Không còn gì, như tôi chưa từng đi qua cuộc đời này.

Dường như tôi cũng có một câu chuyện thật ở nơi vùng trí nhớ không có ánh sáng, tôi không nhìn thấy nó. Như Marcus không bao giờ còn nhìn thấy cây đàn hồ cầm của mẹ em để lại. Tôi cố nhớ lại cuốn phim của đời mình, trong đó có những con đường, những nhà cửa, người quen và công việc. Có một điều gì đó quan trọng hơn nhiều đã ở đó, nhưng nó ở bên ngoài nơi khung hình không vươn tới. Trí nhớ của tôi là người quay phim mê muội đã hướng ống kính tới những điều hiển nhiên dễ hiểu của cuộc sống, cố tìm một chút mạch lạc hơn là những thứ khó lấy nét như dấu chân của loài sói vào lúc ngày chưa đến.

Người tôi yêu lái xe vào một đám sương mù. Tôi còn lại sau khi anh ấy đi rồi, chút mạch lạc gắng lắm mới có được của đời người cũng gẫy đổ vào cái ngày không nắng đó. Tôi cũng muốn chết như anh. Từ xưa đã có bao nhiêu người tự tử để được ở bên người mình yêu nơi cuộc đời bên kia, có một cái gì rất đẹp đẽ và u uất trong chuyện đó. Đáng lẽ quyết định quyên sinh của tôi cũng có một lý do lãng mạn như vậy. Nhưng tôi không có linh hồn. Nhà thờ đã dạy cho tôi điều đó năm tôi 13 tuổi. Giữa linh hồn vĩnh viễn bị đốt cháy trong lửa địa ngục và không có linh hồn, tôi chọn không có linh hồn.

Tôi sẽ ra đi không để lại dấu chân in trên cánh đồng tuyết. Tôi biết rằng ở nơi tôi sinh ra người ta để tang nhau bằng màu trắng. Có lẽ họ hiểu cái chết như vậy, chết là trở về với cánh đồng lúc chưa có loài sói đi qua, một cánh đồng không có dấu chân ai.


Tôi đi đến toa nhà hàng để mua nước suối cho buổi tối. Cô phục vụ nói họ mới cất hàng từ ga vừa qua và chưa kịp mở các thùng giấy ra. Cô hứa sẽ mang nước đến cho tôi sau. Tôi nói để tôi đi lấy cũng được, trong phòng tôi vẫn còn lưng chai nước.

Tôi ăn trưa muộn, ăn rất ít, uống nửa ly rượu vang. Tôi trở về phòng ngủ của riêng mình. Để có thể làm những chuyện cần làm để được chết, người ta không cần nhiều mấy sự can đảm, hay lòng thù ghét cuộc đời, hay tuyệt vọng. Người ta làm chuyện đó bởi vì không có chuyện gì khác để làm.

Tôi cài chốt cửa bên trong. Tôi uống hai viên thuốc chống nôn và sẽ chờ 45 phút trước khi uống 20 viên thuốc an thần. Thuốc chống nôn sẽ làm tôi buồn ngủ, nên tôi không đi nằm. Tôi mặc áo ấm, đến đứng ở cửa sổ. Tôi hạ cửa xuống. Tôi đứng yên vịn lấy thành kính của khung cửa xe lửa, cho gió thổi vào mặt để mình không ngủ và tôi biết tôi sẽ đứng đó trong ba phần tư giờ đồng hồ lạ lùng nhất đời người, trong cái không gian và khoảnh khắc ở giữa cuộc đời và không còn cuộc đời, giữa nỗi buồn và không còn nỗi buồn, giữa những mảnh vỡ và sự nguyên vẹn tuyệt đối của thinh không.

Tôi nhìn ra bên ngoài. Xe lửa đi qua những cánh đồng vào một ngày đông đã qua và xuân chưa tới, một ngày không có mùa và dường như không có ánh sáng cũng không có bóng tối. Một ngày màu xám, thứ màu xám lặng lẽ và bất tận không chứa trong nó một nỗi mong đợi nào. Ven những cánh đồng đã gặt có những bờ cỏ dại. Không phải là cây cỏ với những cành và những lá lao xao, mà chỉ là những cái bóng lờ mờ in trên cái nền xám của khoảnh thời khắc lặng lẽ không phải ngày và không phải đêm. Tôi sắp ra đi yên bình như vầy sao? Ra đi vào một hôm đất trời và cỏ cây không còn hơi thở. Thời gian đã chết.

Tôi nhìn đồng hồ, mới qua hai mươi phút. Tôi còn phải chờ hai mươi lăm phút nữa. Chợt dưng tôi thấy tôi không muốn chờ đợi thêm một phút nào nữa. Sự thanh bình này mong manh. Tôi sợ nỗi buồn chia ly tràn tới.

Tôi dốc hết 20 viên thuốc vào lòng bàn tay. Nước trong cái chai cuối cùng rót ra chỉ còn được nửa ly. Tôi chia những viên thuốc uống ra, uống với ba ngụm nước. Tôi không đóng cửa sổ, lên giường nằm nhắm mắt trong bóng tối nguyên vẹn cuối cùng.


Nhà tôi ở gần một chiếc cầu bắc qua một con sông nhỏ. Cạnh nhà có một con lạch chảy ẩn dưới đám cỏ hoang và lau sậy, chúng tôi chỉ nghe tiếng nước chứ ít có chỗ nhìn thấy giòng nước. Nhưng tôi đã biết vạch lau cỏ để đặt những chiếc lờ cá dưới lạch. Cha tôi đi lính đã ba năm không có nhà. Nhà chỉ có mẹ và hai đứa con gái nhỏ. Mẹ tôi trồng lát, đan chiếu, lâu lâu lại gánh chiếu ra chợ bán một lần. Tôi phụ mẹ nhổ lát, chẻ lát, phơi lát. Hai bàn tay lúc nào cũng sưng. Những khi mẹ tôi buồn, tôi nói: Mẹ đừng khóc, Tết cha về. Tôi nói vậy dù tôi không nhớ mặt cha tôi, không biết ông về nhà thì như thế nào. Việc chính của tôi là trông em. Tôi đi học thì nó ở nhà với mẹ, nhưng nếu mẹ đi chợ xa thì tôi dẫn nó đến đứng ở cửa lớp khi tôi vào học. Tôi cho nó ăn cơm, và tôi đi bắt cá, cắt cỏ hay chạy lông nhông với lũ con nít trong làng, lúc nào con nhỏ em cũng ở sau tôi bốn bước, gần hơn tôi la vì nó làm tôi vướng, xa hơn tôi cũng la vì không trông nó được. Nếu đói, hay bị kiến cắn, hay nước mũi chảy không thở được, nó chỉ cần đứng yên một chỗ mà gọi, tôi sẽ chạy lại lo cho nó. Buổi tối, ba mẹ con ngủ trên bộ ván. Nằm cả ba người một hàng thì chật, phải có một đứa quay đầu ngược lại. Tôi muốn nằm cạnh mẹ, ôm mẹ, nhưng con bé em nhỏ hơn, tôi phải nhường chỗ đó cho nó. Tôi nằm xoay đầu về phía chân, thấy tức mẹ và hơi oán con bé em. Nhưng tôi chưa kịp ngủ thì nó cũng xoay đầu lại nằm bên tôi. Nó ôm tôi dù tôi toàn xương không êm ái như người của mẹ. Nếu tôi xoay lưng về phía nó, nó áp mặt nó vào lưng tôi mà ngủ.

Một tối có tiếng đại bác rơi trong xóm. Chúng tôi đã quen. Chúng tôi chui xuống gầm ván, mẹ tôi đã chất mấy bao cát chung quanh bộ ván. Tiếng đại bác xé gió rít trong đêm rồi rơi xuống đâu đó rất gần, chúng tôi nằm co người cầu Phật cho đạn rơi nơi khác, đừng rơi trên đầu mình. Một tiếng rít sát bên rồi một tiếng ầm lớn, một quả đạn rơi bên cạnh tường, nhà tôi sập. Mẹ tôi nhấc tôi ra khỏi gầm bộ ván, đẩy tôi và gọi: Chạy đi An, chạy đi! Tôi nhắm mắt chạy, không biết gì nữa. Đạn vẫn rơi khắp nơi. Một trái nữa vừa rơi xuống ngay nhà tôi. Chạy thất thần được một quãng tôi mở mắt ra, quay đầu lại nhìn. Tôi không thấy ai bên mình. Tôi có một mình. Tôi loạn cuồng quay đầu chạy ngược lại nhà mình. Căn nhà đã sập hoàn toàn. Mọi người đã chết, chỉ còn mình tôi. Tôi chạy lại ôm xác mẹ, và trong nỗi kinh hoàng, tôi không biết làm gì nữa bây giờ.


Ngày còn nhỏ tôi nhớ câu chuyện đêm hôm đó. Mấy ngày sau, ở trạm y tế, người ta hỏi về gia đình tôi. Tôi nói tất cả người thân của tôi đã chết hết rồi, họ hỏi tôi có thấy xác của người thân không, tôi nói có. Tôi được đưa vào nhà thương để mổ lấy ra những miếng miểng đạn ở lưng và ở vai. Tôi còn nhớ, nhà thương là một chiếc tầu. Tôi không bao giờ còn trở về căn nhà của mẹ tôi nữa. Người ta đưa tôi qua Đức, về với gia đình cha mẹ nuôi.

Ở Đức, tôi không kể câu chuyện đêm đó cho ai nghe, tôi không muốn câu chuyện ấy có thật. Tôi quên mẹ và em, quên tuổi thơ, tôi chưa bao giờ nghe tiếng đạn đại bác rít trong không rồi rơi xuống nơi chúng tôi sinh ra, lớn lên, đã đêm đêm áp má vào lưng nhau mà ngủ.

Bây giờ, trong giờ phút lênh đênh sắp trôi ra ngoài sự sống, tôi nhớ lại tất cả. Không phải tôi nhớ, mà tôi thấy lại tất cả những điều tôi đã quên hơn hai mươi năm rồi. Tôi sống lại những khoảnh khắc năm xưa với tất cả tình cảm của một đứa bé bảy tuổi. Và bỗng dưng tôi biết một điều tôi chưa bao giờ biết, vào năm đó và tất cả những năm về sau của cuộc đời.

Tôi đang ôm xác mẹ tôi. Đạn đang tiếp tục rú những tiếng kinh hoàng trong không. Tôi đang gần ngất đi. Tôi biết tôi sẽ nằm với mẹ như vậy cho tới khi tôi chết. Nhưng tôi nghe có tiếng gọi từ đâu đó: "An ơi, chạy đi”! Tôi không biết ai gọi những tiếng đó, không hiểu nghĩa của nó, tôi không suy nghĩ, không có ý thức, nhưng cái tiếng gọi đó có một thứ sức mạnh lạ lùng khiến tôi đứng dậy và chạy đi, chạy đi mãi…

Bây giờ, đã một nửa bước vào cái chết, tôi chợt biết cái điều tôi chưa từng biết và chưa từng quên, rằng tiếng gọi đó là của đứa em gái nhỏ. Lúc tôi quay lại căn nhà và nhìn thấy xác mẹ, nó còn sống. Nó còn ở đâu đó trong căn nhà sập, không chạy đi vì nó còn chờ tôi nắm tay nó dẫn theo mình. Con bé luôn luôn biết mình phải ở sau chị nó bốn bước và không được rời xa hơn vì xa hơn thì tôi không trông được. Vậy mà tôi đã chạy đi một mình, bỏ lại con bé em ba tuổi với xác mẹ, trong căn nhà sập, trong lúc đạn đại bác tiếp tục rít trong không khí. Nó gọi “An ơi, chạy đi!” Bây giờ tôi mới hiểu nó gọi An ơi, tới đây dẫn em chạy khỏi đây đi! Nhưng nó không nói ra tất cả các chữ vì quá dài. Cũng có thể nó bị kẹt ở dưới bức tường nhà vừa đổ. Tôi đã không đến cứu nó ra. Tôi chỉ nhắm mắt một mình chạy đi. Tôi chạy đi mãi, đi mãi, 25 năm chưa bao giờ quay đầu lại với đứa em nhỏ chờ tôi đến cứu nó khỏi nỗi kinh hoàng.

Tôi chợt hiểu ra tất cả. Tại sao trong tất cả những năm của đời mình tôi đã không tìm được cái thứ keo để gắn lại các mảnh của cuộc đời lại với nhau và gắn chính mình vào với thế giới loài người. Tôi đã cố hết sức mình, nhưng mọi thứ đều rời rạc, tan tác và tôi mãi là một thứ rong rễ không bám được vào một thứ gì để thôi trôi nổi. Bởi vì trong cái khoảnh khắc kinh hoàng nhất của cuộc đời, vào lúc người ta cần nhau nhất để cứu nhau ra khỏi tai ương, trí óc tôi đã chọn xóa đi cái khoảnh khắc ấy ngay khi nó đang xảy ra, đã chọn không nhận ra tiếng đứa em mình đã trông giữ mỗi ngày. Tôi đã bỏ rơi đứa em trong cái khoảnh khắc quan trọng nhất của cả đời tôi và đời nó, bỏ rơi nó trong cơn sợ hãi, trong hiểm nguy, trong bóng tối vô tận.

Tôi đã chạy đi một mình. Trong phần đời còn lại của tôi tôi vẫn mãi là con bé chị không nhận ra tiếng em mình, nhắm mắt chạy đi mãi không quay đầu lại, không bao giờ mở mắt ra. Trong câu chuyện của Anita, tôi tưởng tôi là Marcus bị bỏ rơi. Bây giờ tôi chợt hiểu ra mình là Michael đã chọn lấy sự mất trí nhớ để đổi lấy sự ấm êm trong căn nhà của Sophie.

Tôi đang trôi gần đến cái chết, đang lênh đênh trên giòng nước chảy xuống triền núi. Một chút nữa, nơi mặt đất dừng lại, giòng nước sẽ rơi xuống vực và bên dưới là thung lũng nằm trong bóng tối mênh mông. Tôi đang trôi và đang mất đi, đang trôi mãi về nơi mặt đất sẽ dừng lại.

Trong lúc ý thức đang tắt dần tôi lại nghe tiếng gọi tôi. Đêm cuối trong nhà thương tôi đã nghe tiếng gọi ấy, tôi ngỡ là tiếng gọi từ một nơi nào trong ký ức, một nơi sương trắng đã phủ lên. Bây giờ thì tôi nhận ra tiếng của em tôi, không phải từ ngày xưa mà trong lúc này. “An ơi, An ơi, chị có đó hay không?” Em tôi còn sống. Nó đang ở một nơi trên trái đất từng là quê hương tôi. Nơi đó nghèo khó hơn nơi này. Nơi đó tôi đã được sinh ra, lớn lên, đi đặt những lờ cá gần nơi những người đàn ông đi đặt mìn.

Tôi biết tôi phải về đi tìm em mình. Và tôi phải trở lại Weilenthal, nơi có người đợi tôi. Tôi không thể chết, ngàn lần không muốn chết. Xin cho tôi sống nhìn thấy em tôi một lần, cho tôi giải mối oan này, quay về với cuộc đời, với sự sống tôi chưa từng được biết và khát khao đến nao lòng. Cho tôi sống những ngày và những đêm của mình, chứ không sống bằng thời gian và trí nhớ của người khác. Cho tôi gặp lại em tôi dù chỉ một lần, một lần thôi là ơn trời vô tận.


Trong lúc đang trôi trong cả một giòng nước, lạ lùng thay, tôi thấy miệng tôi khô đắng và tôi cần một ly nước. Nếu uống được một ly nước trong lúc này, tôi sẽ sống.

Chai nước ở cạnh giường đã hết. Tôi gắng hết sức mình đi đến cửa gian phòng, nhưng cửa đã cài và tôi yếu quá không mở được. Tôi ngã xuống sàn tầu. Tôi nghe tiếng người gọi tôi rõ hơn. Tiếng gọi từ phía bên kia cánh cửa. An ơi, An ơi.

“Thưa bà, tôi mang chai nước suối đến cho bà đây.”

Tôi cố gọi bằng tất cả sức mình còn lại: “Cứu tôi! Xin cứu tôi với!” Tôi không biết tiếng gọi có thoát ra ngoài cổ họng mình và cô gái ở phía bên kia cánh cửa có nghe thấy không. Tôi cố vùng vẫy cho khỏi lịm đi, nhưng tôi không còn điều khiển được thân thể và ý thức của mình. Bóng đêm đang tràn tới, mênh mông.

Nguồn: Và khi tro bụi rơi về, tiểu thuyết của Đoàn Minh Phượng, Nhà xuất bản Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 4.2006. Tác phẩm được đăng lại trên talawas với sự đồng ý của tác giả. Bản trên talawas có vài khác biệt nhỏ so với bản in tại Nhà xuất bản Trẻ.


I II III

Đoàn Minh Phượng sinh ở Sài Gòn, thời thơ ấu theo gia đình sống ở vài tỉnh nhỏ miền Trung, rời Việt Nam sang Đức năm 20 tuổi. Hiện sống ở Bonn và Sài Gòn.

Tác phẩm Hạt mưa rơi bao lâu, Phim truyện, Kịch bản: Đoàn Minh Phượng, Đạo diễn: Đoàn Minh Phượng và Đoàn Thành Nghĩa, Việt Nam / Đức 2004, 114 phút; Và khi tro bụi, Tiểu thuyết, Nhà xuất bản Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 4.2006, 186 trang.

gui bai Gửi bài này cho bạn bè    in baiIn bài