talawas chủ nhật

 
Tác phẩm dịch :: 22.10.2006
Mikhail BulgakovNghệ nhân và Margarita

Phần 1 Phần 2 Phần phụ lục

Mikhail Bulgakow
Mikhail Bulgakow (1891-1940)

“Trong di sản văn học nhân loại không ít những tác phẩm để đến được bạn đọc phải trải qua bao gian truân, tốn bao công sức, nhưng một số phận như Nghệ nhân và Margarita quả thật hiếm có. Ðược viết trong mười hai năm, bắt đầu từ năm 1928 với cái tên dự định là Tiểu thuyết về quỷ sứ, bị xé, bị đốt, viết đi viết lại bảy lần; cho đến năm 1940 nằm trên giường bệnh, mắt lòa, Bulgakov vẫn đọc cho vợ sửa chữa; sau khi nhà văn qua đời, người vợ tận tụy là Elena Sergheevna Bulgakova cùng bạn bè và những người hâm mộ ông sau hơn một phần tư thế kỷ chạy vạy mới công bố được tác phẩm bị cắt xén "một cách man rợ" trên tờ tạp chí Moskva. Nhưng ngay ở dạng bị lược bỏ này cuốn tiểu thuyết cũng gây nên chấn động lớn…” (Đoàn Tử Huyến)

Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu toàn văn tác phẩm đặc sắc này qua bản dịch từ nguyên bản tiếng Nga của Đoàn Tử Huyến.

talawas chủ nhật

Mikhail Bulgakov

Nghệ nhân và Margarita

Đoàn Tử Huyến

Phần 1

Chương 1: Ðừng bao giờ nói chuyện với những người lạ Chương 2: Ponti Pilat Chương 3: Bằng cứ thứ bảy Chương 4: Cuộc đuổi bắt Chương 5: Chuyện xảy ra ở Griboedov Chương 6: Sidôphrenia Như đã được nói trước Chương 7: Căn hộ có ma Chương 8: Cuộc đấu giữa giáo sư và nhà thơ Chương 9: Những trò ảo thuật của Koroviev Chương 10: Những tin tức từ Ialta Chương 11: Sự phân thân của Ivan Chương 12: Hắc ảo thuật và sự lật tẩy nó Chương 13: Nhân vật xuất hiện Chương 14: Khá khen thay gà trống! Chương 15: Giấc mơ của Nikanor Ivanovich Chương 16: Vụ hành quyết Chương 17: Một ngày bất an Chương 18: Những người khách rủi ro

 

Chương 12:
Hắc ảo thuật và sự lật tẩy nó



Một người đàn ông nhỏ thó đội mũ nồi vàng rách với chiếc mũi đỏ như huyết dụ hình trái lê, mặc quần dài kẻ ô, chân đi đôi ủng đánh xi bóng lộn lăn ra sân khấu nhà hát Tạp Kỹ trên chiếc xe đạp hai bánh bình thường. Trong tiếng nhạc phost'rot anh ta đi một vòng, rồi hét lên một tiếng đắc thắng, và chiếc xe dựng đứng lên. Ði bằng một bánh sau, anh ta chổng hai chân lên trời, khéo léo vừa đi vừa tháo bánh trước ra, ném nó vào sau tấm màn hậu sân khấu, rồi dùng hai tay quay pêđan tiếp tục di chuyển trên một bánh xe.

Một phụ nữ đẫy đà tóc bạch kim, mặc áo t'ricot và váy lấp lánh những ngôi sao bạc, xuất hiện trên một bánh xe có cọc yên bằng kim loại rất cao và bắt đầu đi vòng tròn trên sân khấu. Mỗi lúc hai người gặp nhau, người đàn ông lại hét lên những tiếng chào và dùng chân bỏ chiếc mũ nồi ở trên đầu xuống.

Cuối cùng, một cậu bé chừng tám tuổi với bộ mặt ông già phóng ra và lượn vòng vèo giữa hai người lớn trên chiếc xe đạp hai bánh bé tí được gắn ổ còi ô tô rất lớn.

Lượn đi lượn lại mấy vòng, cả nhóm ba người trong tiếng trống rộn rã của dàn nhạc cùng phóng đến tận bên mép sân khấu; các khán giả ngồi ở dẫy hàng đầu hét lên và co rúm người lại - họ tưởng rằng cả bộ ba cùng những chiếc xe của mình sẽ rơi thẳng xuống đầu dàn nhạc ngồi ở dưới.

Nhưng cả ba chiếc xe đạp đã dừng sững lại đúng vào cái khoảnh khắc khi các bánh trước của chúng sắp sửa trượt xuống đầu các nhạc công ở phía dưới hố sâu. Các diễn viên xe đạp đồng thanh hô to lên một tiếng “hốp!” và nhảy xuống đất cúi mình chào; hơn nữa, người phụ nữ tóc bạch kim còn gửi đến các khán giả vô số chiếc hôn gió, và cậu bé thì bấm những tiếng còi xe hơi thật ngộ nghĩnh.

Tiếng vỗ tay rung chuyển cả tòa nhà, tấm màn xanh từ hai phía kéo đến che khuất các diễn viên xe đạp, những ngọn đèn xanh với dòng chữ “Lối ra” ở các cánh cửa vụt tắt, và trong mạng nhện những chiếc thang dây dưới mái vòm bật sáng lên những quả cầu trắng như mặt trời. Bắt đầu giờ nghỉ giải lao trước khi vào phần cuối cùng của chương trình.

Có một người duy nhất hoàn toàn không quan tâm đến những tiết mục kỳ diệu trong kỹ thuật đi xe đạp của gia đình Giunli - người đó là Grigori Danilovich Rimski. Ông ta ngồi một mình trong phòng làm việc, cắn chặt cặp môi mỏng dính và trên mặt thỉnh thoảng lại có bóng của một cơn co giật. Tiếp theo sự biến mất kỳ quái cua Likhodeev là sự biến mất hoàn toàn không ngờ trước của trưởng phòng quản trị Varenukha.

Rimski biết rõ Varenukha đi đâu, nhưng anh ta đi và và không thấy trở về nữa! Rimski nhún vai, thì thầm nói với mình:

„Nhưng vì sao?”

Và, kể cũng lạ: một con người tháo vát như phó giám đốc tài chính có khó khăn gì trong việc gọi dây nói đến nơi Varenukha định đến và hỏi xem chuyện gì đã xảy ra, thế mà mãi cho đến tận mười giờ tối ông ta vẫn không thể nào buộc mình làm được điều đó.

Ðến mười giờ, sau khi phải nỗ lực cưỡng bức mình thật sự, Rimski nhấc ống nghe lên và lập tức hiểu rằng điện thoại của mình không làm việc.

Nhân viên văn thư báo cáo rằng tất cả những máy khác trong tòa nhà cũng đều bị hỏng. Cái điều tất nhiên là khó chịu nhưng dù sao cũng chưa phải là siêu thường này không hiểu sao đã làm phó giám đốc tài chính chấn động thật sự, nhưng đồng thời lại làm ông ta vui mừng: cái khả năng phải gọi điện thoại như vậy là không còn tồn tại nữa.

Vào đúng lúc phía trên đầu phó giám đốc nhấp nháy ngọn đèn hiệu đỏ báo bắt đầu giờ nghỉ giải lao, một nhân viên văn thư bước vào và thông báo rằng nhà nghệ sĩ nước ngoài đã đến. Phó giám tài chính không hiểu sao như bị điện giật; mặt mày sầm xuống ủ dột hơn đám mây giông, ông ta đi vào hậu trường để tiếp vị khách đến biểu diễn, vì quả là không còn ai khác để làm việc đó nữa.

Rất nhiều những kẻ tò mò - các nhà ảo thuật mặc áo choàng sặc sỡ đội khăn xếp, một vận động viên trượt băng mặc áo blu bằng len đan, người dẫn chuyện mặt thoa phấn trắng bệch và một chuyên gia hóa trang - tìm mọi cớ khác nhau để từ ngoài dãy hành lang, nơi đã bắt đầu vang lên những hồi chuông hiệu, ló đầu nhìn vào gian phòng hóa trang rộng lớn.

Nhà nghệ sĩ danh tiếng vừa mới đến làm cho tất cả phải kinh ngạc bởi chiếc áo đuôi tôm may rất lạ, dài chưa ai thấy bao giờ, và bởi việc ông ta đến đây trong chiếc mặt nạ đen che kín nửa mặt. Nhưng lạ lùng hơn cả là hai kẻ đồng hành của nhà hắc ảo thuật: một người dài ngoẵng mặc đồ kẻ ô đeo kính vỡ mắt và một con mèo đen rất béo; vừa bước vào phòng hóa trang bằng hai chân sau, con mèo đã hoàn toàn tự nhiên ngồi xuống đi văng, nheo nheo mắt nhìn lên những bóng đèn hóa trang không có chao đèn.

Rimski cố tạo ra trên mặt mình một nụ cười - nhưng vì thế mà mặt ông ta chỉ trở nên thêm nhăn nhó và dữ tợn - khẽ nghiêng mình chào nhà ảo thuật im lặng ngồi cạnh con mèo trên đi văng. Không có bắt tay, mà thay vào đó người mặc áo quần kẻ ô suồng sã tiến đến tự giới thiệu mình với phó giám đốc tài chính là “trợ lý của ngài nghệ sĩ đây”. Ðiều này làm cho Rimski ngạc nhiên và khó chịu: trong bản hợp đồng hoàn toàn không nói gì tới trợ lý nào cả.

Một cách khá gượng gạo và khô khan, Grigori Danilovich hỏi tay trợ lý áo kẻ ô không biết từ đâu rơi xuống đầu ông ta, là đạo cụ của nghệ sĩ ở đâu?

„Ôi viên ngọc trời cho của tôi, ôi ngài phó giám đốc vô ngần yêu quý“, tay trợ lý của nhà ảo thuật đáp bằng giọng ngân rè rè, “đạo cụ của chúng tôi luôn luôn bên mình. Nó đây! Ây, svây, đrây!„ và, huơ huơ những ngón tay khòng khoèo trước mắt Rimski, gã bất ngờ lấy từ sau tai của con mèo ra chiếc đồng hồ mạ vàng có dây đeo, đó là chiếc đồng hồ của chính Rimski mà cho đến phút trước đây vẫn nằm yên trong túi áo gilê của phó giám đốc tài chính phía dưới áo vét cài chặt hết các cúc và lại còn móc chặt dây đeo vào khuyết áo nữa.

Bất giác Rimski đưa tay chộp lấy bụng, những người đứng xung quanh thốt lên ngạc nhiên, còn người hóa trang ló cổ nhìn vào cửa thì cười ằng ặc thán phục.

„Ðồng hồ của ngài phải không ạ? Xin ngài nhận lấy cho“, gã mặc áo kẻ ô suồng sã mỉm cười, ngửa bàn tay cáu bẩn trả lại cho Rimski đang đứng ngơ ngác trước vật sở hữu riêng của ông ta.

„Ði tàu điện thì phải tránh xa loại người này“, người dẫn chuyện vui vẻ nói khẽ vào tai người hóa trang.

Nhưng con mèo đã trình diễn một tiết mục còn ngoạn mục hơn cái trò thó đồng hồ của người khác. Ðột ngột rời đi văng đứng dậy, nó đi bằng hai chân sau đến bên chiếc bàn cạnh tấm gương đứng, dùng một chi trước rút chiếc nắp ra khỏi bình đựng nước, rót nước ra cốc, uống cạn, rồi đặt nắp bình vào chỗ cũ, lấy khăn hóa trang lau mấy sợi ria ướt.

Lần này tất cả chỉ đứng há hốc mồm, không ai thốt lên lời nào, chỉ có nhà hóa trang thì thào thán phục:

„Ôi, cực kỳ!”

Tiếng chuông ròn rã vang lên lần thứ ba, và tất cả mọi người, hào hứng sôi nổi đón chờ những tiết mục hấp dẫn, ùa ra khỏi phòng hóa trang.

Một phút sau, những quả cầu trong phòng khán giả vụt tắt, dãy đèn trước sân khấu bật ánh sáng đỏ chiếu lên phần dưới của tấm màn, và ở khe giữa của tấm màn hiện lên trước mặt các khán giả một người đẫy đà, vui vẻ như đứa trẻ, với bộ mặt cạo nhẵn nhụi, mặc áo đuôi tôm nhàu nát và chiếc sơmi lót trong từ lâu chưa giặt. Ðó là George Bengalski, người dẫn chương trình chuyên nghiệp nổi tiếng khắp Moskva.

„Thưa quý vị đồng bào“, Bengalski mỉm một nụ cười con trẻ và cất tiếng nói, “bây giờ trình diễn hầu quý vị sẽ là...„ nói đến đây Bengalski tự dừng lời mình và đổi sang nói bằng một giọng khác: „Tôi thấy là sang phần ba của chương trình hình như khán giả càng đông hơn? Hôm nay phải đến một nửa thành phố tới đây! Mấy hôm trước tôi gặp một người bạn và hỏi anh ta: “Làm sao cậu không đến chỗ tớ? Hôm qua cả một nửa thành phố đến chỗ tớ đấy”. Còn anh ta đáp: “Nhưng tớ sống ở nửa thành phố khác!” - Bengalski ngừng lời, chờ một trận cười sẽ nổ ra, nhưng vì không thấy ai cười, anh ta đành tiếp tục: „...Thưa quý vị, người biểu diễn: ngài nghệ sĩ nước ngoài nổi tiếng Voland, với các tiết mục hắc ảo thuật! Tất nhiên, chúng ta đều hiểu rằng“, Bengalski mỉm một nụ cười thông thái, “nói chung nó, cái gọi là hắc ảo thuật không tồn tại trên thế giới này, và thực chất nó chẳng phải cái gì khác ngoài nhưng trò mê tín, ở đây chỉ đơn giản là nhà nghệ sĩ bậc thầy Voland có một trình độ kỹ thuật ảo thuật rất hoàn bị, điều đó chúng ta sẽ thấy rõ trong phần thú vị nhất của chương trình, tức là phần lật tẩy cái kỹ thuật đó, và vì tất cả chúng ta ai cũng như ai đều vừa khao khát được trực tiếp mục kích cả kỹ thuật lẫn sự lật tẩy kỹ thuật đó, xin mời quý ngài Voland!”

Nói xong một mớ nhảm nhí, Bengalski áp hai bàn tay vào nhau và cởi mở vung về phía khe hở giữa tấm màn: tấm màn khẽ kêu sột soạt dịch chuyển sang hai bên.

Sự xuất hiện nhà ảo thuật với tay trợ lý dài ngoẵng và con mèo (nó bước lên sân khấu bằng hai chân sau) làm cho các khán giả vô cùng thích thú.

„Ghế bành lại đây!„ Voland khẽ ra lệnh, và ngay lập tức, vào đúng giây đồng hồ ấy, không hiểu từ đâu và bằng cách nào, trên sân khấu xuất hiện một chiếc ghế bành. Nhà ảo thuật ngồi vào đó, nói:

„Này, Phagot thân mến“, Voland hỏi tay trợ lý hề mặc áo kẻ ô (như vậy có nghĩa là ngoài cái tên “Koroviev” ra, gã còn có một tên khác nữa), “hãy nói ta nghe, theo ngươi, dân Moskva thay đổi nhiều lắm phải không?”

Nhà ảo thuật nhìn xuống đám khán giả đang lặng ngắt, sững sờ trước sự xuất hiện của chiếc ghế bành từ trong không khí.

„Thưa messir, đúng thế ạ“, Phagot-Koroviev đáp khẽ.

„Ngươi nói đúng, dân thành thị thay đổi nhiều về bề ngoài, cũng như bản thân thành phố ấy. Về trang phục thì không nói làm gì, nhưng đã xuất hiện những... chúng gọi là gì nhỉ?... tàu điện, xe hơi...”

„Ô tô buýt“, Phagot kính cẩn nhắc.

Khán giả chăm chú đắng nghe đoạn đối thoại đó, cho rằng nó là khúc dạo đầu cho những trò ảo thuật lạ lùng. Phía sau tấm phông hậu trường chật ních các diễn viên và công nhân phục vụ sân khấu, và giữa những bộ mặt của họ nổi lên bộ mặt căng thẳng, tái nhợt của Rimski.

Trên nét mặt của Bengalski đứng cạnh sân khấu bắt đầu xuất hiện vẻ ngơ ngác. Hơi nhướng cặp lông mày, lợi dụng khoảng nghỉ trong câu chuyện của hai người, anh ta cất tiếng:

„Nhà nghệ sĩ nước ngoài bày tỏ sự khâm phục đối với thành phố Moskva đã phát triển mạnh mẽ về mặt kỹ thuật, cũng như đối với những người dân Moskva“, nói đến đây Bengalski mỉm cười hai lần, lúc đầu hướng về gian chính ở phía dưới, sau là với các tầng gác ở trên.

Voland, Phagot và con mèo đều quay đầu nhìn về phía người dẫn chương trình.

„Chẳng lẽ ta bày tỏ sự thán phục sao?„ nhà ảo thuật hỏi Phagot.

„Hoàn toàn không, thưa messir, ngài không hề bày tỏ sự thán phục nào cả ạ“, gã đáp.

„Thế người kia nói cái gì?”

„Hắn ta nói láo đấy mà!„ Tay trợ lý áo kẻ ô hét vang cả nhà hát, rồi quay lại phía Bengalski: „Xin chúc mừng, xin chúc mừng ngài đã nói láo.”

Từ trên gác có tiếng cười ồ lên, còn Bengalski giật mình, trố mắt.

„Nhưng cái làm ta quan tâm không chỉ là ô tô buýt, điện thoại và các thứ...”

„Máy móc khác!„ gã áo kẻ ô nhắc.

„Hoàn toàn đúng thế, cảm ơn“, nhà ảo thuật chậm rãi nói bằng giọng trầm và nặng, “mà có một vấn đề khác quan trọng hơn: họ, những người dân thành phố này, bên trong có thay đổi không?”

„Ðó là một vấn đề cực kỳ quan trọng, thưa messir.”

Sau hậu trường mọi người bắt đầu nhìn nhau và nhún vai. Bengalski đứng mặt đỏ tía, còn mặt Rimski thì trắng bệch. Nhưng lúc đó, như đoán được nỗi sốt ruột bắt đầu xuất hiện của mọi người, nhà ảo thuật nói:

„Nhưng chúng ta quá mải nói chuyện, Phagot thân mến ạ, còn khán giả đã bắt đầu chán. Ngươi hãy làm một cái gì đó đơn giản để bắt đầu đi.”

Phòng xem cựa mình nhẹ nhõm. Phagot và con mèo tản về hai bên của dãy đèn trước sân khấu. Phagot bật ngón tay, hét to vẻ ngang tàng:

„Ba, bốn!„ và giơ tay bắt từ trong không khí một bộ bài, xáo quân rồi ném rải thành một dải băng cho con mèo. Mèo đón lấy dải băng rồi ném trả lại. Con rắn giấy nhẵn mượt phát ra tiếng phì phì, Phagot há miệng như một con chim non và nuốt cả bộ bài hết quân này đến quân khác.

Liền đó, con mèo khuỳnh chi sau bên phải, nghiêng người chào, gây nên một tràng vỗ tay nồng nhiệt.

„Giỏi, giỏi lắm!„ từ sau hậu trường vang lên những tiếng kêu thán phục.

Còn Phagot chỉ ngón tay xuống phía khán giả ở tầng dưới và tuyên bố:

„Cỗ bài này bây giờ, thưa quý vị, đang ở hàng thứ bảy trong túi của công dân Partrevski, ngay giữa tờ giấy bạc ba rúp và tờ giấy gọi ra tòa về việc trả tiền cấp dưỡng cho nữ công dân Gienkova.”

Mọi người ở tầng dưới xôn xao, nhấp nhổm đứng dậy nhìn, và cuối cùng một người đàn ông - đúng tên là Partrevski - cả người đỏ lựng lên vì kinh ngạc, lôi từ trong ví ra cỗ bài, và không biết phải làm gì với nó, chọc chọc vào không khí.

„Anh cứ giữ nó lại để làm kỷ niệm!„ Phagot hét to. „Chính anh chiều qua lúc ăn tối đã nói rằng, nếu như không có trò chơi bài thì cuộc sống của các anh ở Moskva chắc phải chán không chịu được đấy thôi.”

„Tiết mục cũ rồi“, từ tầng gác có tiếng vọng xuống, “cái người ngồi dưới đó là cùng hội với các anh!”

„Anh cho thế à?„ Phagot hét lên, mắt nheo nheo nhìn lên tầng gác, “nếu thế thì anh cũng cùng hội với chúng tôi, vì trong túi anh cũng có!”

Tầng trên nhốn nháo, rồi vang lên một giọng mừng rỡ:

„Ðúng rồi! Có thật!... Khoan! Mà đây là giấy bạc!”

Những người ngồi ở tầng dưới quay đầu lại nhìn. Ở tầng gác trên, một người đàn ông nào đó ngơ ngác tìm thấy trong túi áo của mình một gói giấy được buộc kỹ theo lối ngân hàng với dòng chữ đề ngoài: “Một nghìn rúp”.

Những người ngồi bên vươn người về phía ông ta, còn ông ta kinh ngạc dùng móng tay chọc lớp vỏ cố nhận biết xem đó là tiền thật hay chỉ là những tờ giấy phù phép.

„Ê, tiền thật! Toàn giấy mười rúp!„ trên tầng gác vang lên những tiếng hét mừng rỡ.

„Hãy làm với tôi một gói như thế đi!„ một ông to béo ngồi hàng giữa tầng dưới vui vẻ đề nghị.

„Avec plaisir [1] „, Phagot hét lên đáp“, nhưng tại sao lại chỉ với một mình quý vị? Tất cả mọi người đều sẽ tích cực tham gia!„ Và gã hô: „Mời nhìn lên trên! Một!„ Trong tay gã hiện ra khẩu súng lục. „Hai! „Nòng súng chĩa lên cao. „Ba! „Một ánh chớp, một tiếng nổ bục, và tức khắc từ trên mái vòm, chới với giữa những thang dóng, lả tả rơi xuống phòng xem vô số tờ giấy trắng.

Những tờ giấy quay đảo, bay tung ra bốn phía, rơi xuống cả tầng gác trên, cả hầm dàn nhạc, cả sân khấu. Sau mấy giây, trận mưa giấy bạc mỗi lúc một dày đặc thêm, đã rơi xuống tận các dãy ghế ngồi, và người xem bắt đầu đua nhau đón bắt.

Hàng trăm cánh tay khuơ lên, mọi người soi những tờ giấy bạc về phía ánh sáng trên sân khấu và trông thấy những dấu chìm hiển nhiên và quý báu nhất. Cả cái mùi của chúng cũng không cho phép có một nghi ngờ nào: đó là cái mùi tuyệt vời không có gì so sánh nổi của những tờ giấy bạc mới in. Thoạt đầu là sự vui vẻ, rồi sau là sự kinh ngạc bao trùm lấy cả nhà hát. Ðâu đâu cũng nghe vang lên từ “mười rúp, mười rúp”, những tiếng hô cảm thán: “Ôi, chà” và tiếng cười vui vẻ... Một vài kẻ đã bò giữa lối đi, sờ soạng dưới các chân ghế. Nhiều người đứng lên trên mặt ghế, vươn tay đón bắt những tờ giấy chao đảo, chờn vờn.

Trên mặt của những người công an dần dần lộ vẻ phân vân, còn các diễn viên bắt đầu công khai thò đầu khỏi tấm phông hậu trường ngó ra.

Từ trên ban công vẳng xuống giọng nói: “Anh chộp cái gì thế hả? Ðây là của tôi! Nó bay đến chỗ tôi!” và một giọng nói khác: “Này anh kia, đừng có mà xô, tự tôi cũng xô cho bây giờ”. Rồi bỗng nghe có tiếng đánh huỵch, ngay lập tức trên ban công xuất hiện chiếc mũ công an, và một người nào đó bị dẫn đi khỏi ban công.

Nói chung, sự huyên náo mỗi lúc một tăng và không biết là nó sẽ biến thành cái gì nếu như Phagot không đột ngột thổi một cái vào không khí, chấm dứt trận mưa tiền.

Hai chàng thanh niên, sau khi trao đổi với nhau một cái nhìn nhiều hàm ý và vui vẻ, liền rời khỏi chỗ và đi thẳng xuống quầy ăn. Trong nhà hát ồn ào như ong vỡ tổ, mắt của tất cả các khán giả đều long lanh đầy kích động. Vâng, vâng, không biết là tất cả những cái đó sẽ biến thành cái gì nếu như Bengalski không thu dồn hết sức lực của mình và bắt đầu hoạt động. Cố tự chủ lại, anh ta theo thói quen xoa hai tay vào nhau, bằng một giọng nói oang oang cất tiếng:

„Thế đấy, thưa đồng bào, chúng tôi và quý vị vừa trông thấy một trường hợp của cái gọi là thôi miên tập thể. Một thí nghiệm khoa học thuần túy, nó chứng minh một cách không có gì tốt hơn là không hề có các phép lạ và ma thuật nào cả. Chúng ta xin đề nghị đại pháp sư Voland lật tẩy cái thí nghiệm này. Bây giờ, thưa đồng bào, quý vị sẽ thấy rằng những tờ có vẻ như là giấy bạc này sẽ biến mất cũng đột ngột như chúng đã xuất hiện.»

Nói đến đây anh ta vỗ tay, nhưng tiếng vỗ tay của Bengalski vang lên hoàn toàn đơn độc và tuy trên mặt anh ta rạng rỡ một nụ cười tự tin, nhưng trong cặp mắt hoàn toàn không có sự tự tin đó, còn cái mà chúng để lộ lại gần như một sự cầu khẩn thì đúng hơn.

Khán giả không thích những lời nói của Bengalski. Một sự im lặng tuyệt đối bao trùm nhà hát, nó bị phá vỡ bởi giọng nói của Phagot mặc áo kẻ ô.

„Ðây lại là một trường hợp của cái gọi là nói láo“, gã lớn tiếng tuyên bố bằng giọng tênô dê đực, «thưa quý vị, đây chính là tiền thật đấy!»

„Ðúng thế“, một giọng trầm gầm lên ở đâu đó trên cao.

„Hơn nữa, cái tay này », Phagot chỉ tay vào Bengalski, «đã làm cho tôi phát ngán lên rồi. Cứ chõ miệng vào những nơi không ai khiến, bằng những nhận xét giả dối làm hỏng cả chương trình! Chúng ta biết làm gì với hắn bây giờ?»

„Vặn đầu hắn đi!„ một người nào đó ở trên tầng gác nghiêm khắc nói.

„Anh nói sao, hả?„ Phagot lập tức hưởng ứng cái đề nghị tồi tệ kia. „Vặn đầu đi hả? Một ý kiến hay lắm! Beghemot [2] !„gã quát con mèo. „Làm đi! Ây, svây đrây!»

Và lúc đó đã xảy ra một việc chưa từng thấy.

Lông trên mình con mèo đen bỗng dựng ngược, nó ngoao lên một tiếng thật rùng rợn, thu nhỏ mình lại thành khối tròn, rồi như một con báo, bật phóng thẳng lên ngực Bengalski, rồi từ ngực nhảy lên đầu. Vừa phát ra những tiếng gầm gừ, con mèo vừa quắp những cặp chi mũm mĩm vào mái tóc lơ thơ của người dẫn chương trình, rồi rú lên man dại, chỉ sau hai vòng quay đã vặn đứt mái đầu đó ra khỏi chiếc cổ đầy đặn.

Hai nghìn rưởi con người ngồi trong rạp nhất loạt thốt lên một tiếng kêu. Máu bắn vọt lên cao thành vòi phun từ những động mạch bị đứt trên cổ rồi rơi xuống nhuộm đỏ áo sơmi trước ngực và chiếc áo đuôi tôm. Tấm thân không đầu lảo đảo chèo đôi chân một cách ngớ ngẩn rồi ngã ngồi xuống sàn sân khấu. Dưới phòng xem nổi lên những tiếng rú điên dại của phụ nữ. Con mèo trao thủ cấp cho Phagot, gã túm lấy tóc nhấc lên và giơ ra cho khán giả xem; chiếc đầu kinh hoàng hét vang khắp cả nhà hát:

„Bác sĩ!»

„Ngươi có còn ăn nói đủ mọi chuyện nhảm nhí như vậy nữa không?„ Phagot dữ tợn hỏi chiếc đầu đang khóc nức nở.

„Không dám nữa ạ!„ chiếc đầu rít lên.

„Lạy trời, đứng hành hạ anh ta nữa!„ đột nhiên có một giọng phụ nữ từ các hàng ghế lô vang lên át cả những tiếng ồn náo loạn, và nhà ảo thuật quay nhìn về phía có giọng nói đó.

„Vậy thì thế nào đây, thưa quý vị, tha thứ cho hắn à?„ Phagot hướng xuống phòng xem, hỏi.

„Tha đi! Tha đi!„ lúc đầu vang lên những tiếng rời rạc, chủ yếu là của phụ nữ, nhưng sau chúng hòa vào một bản đồng ca của giọng đàn ông.

„Thưa messir, ngài ra lệnh thế nào ạ?„ Phagot hỏi nhà ảo thuật với nửa mặt che kín.

„Thôi được“, ông ta trầm ngâm đáp, «họ vẫn chỉ là người thôi mà. Họ thích tiền, nhưng điều đó thì bao giờ vẫn vậy... Loài người thích tiền, dù cho tiền được làm bằng gì đi nữa - bằng da, bằng giấy, bằng đồng hay bằng vàng. Ừ, thì họ nông nổi... nhưng... đôi khi lòng từ tâm cũng nổi lên trong lòng họ... những con người bình thường... nói chung cũng giống như những người trước kia... chỉ có vấn đề nhà cửa làm cho họ hư hỏng... - và ông ta nói to ra lệnh: „Lắp đầu vào.»

Con mèo, sau khi ngắm nghía cẩn thận, cắm chiếc đầu vào cổ người dẫn chương trình; chiếc đầu gắn chặt vào chỗ của mình hệt như chưa bao giờ bị tách ra cả, và cái căn bản là thậm chí không thấy có một vết đứt sẹo nào trên cổ. Con mèo lại dùng chân phủi lên chiếc áo đuôi tôm và cổ áo sơmi hồ cứng của Bengalski, các vết máu liền biến mất. Phagot nhấc Bengalski đang ngồi trên sàn đứng dậy, nhét vào túi áo đuôi tôm cho anh ta một tập giấy bạc mười rúp và hét đuổi khỏi sân khấu:

„Biến khỏi đây đi! Không có ngươi sẽ vui vẻ hơn!»

Ngơ ngác nhìn quanh, lảo đảo, người dẫn chương trình chỉ bước đến bên buồng cứu hỏa thì kiệt sức, hét lên thảm thiết:

„Ðầu của tôi! Ôi đầu của tôi!»

Rimski cùng mấy người khác chạy đến đỡ. Bengalski òa lên khóc, hai tay bắt một cái gì đó trong không khí, miệng lẩm bẩm:

„Trả đầu của tôi đây! Trả đầu đây! Các người cứ lấy nhà đi, lấy tranh đi, nhưng hãy trả đầu đây!»

Một nhân viên văn thư chạy đi gọi bác sĩ. Mọi người định đặt Bengalski nằm lên đi văng, nhưng anh ta vùng vẫy, tỏ ra dữ tợn. Buộc phải gọi xe đến. Khi anh chàng dẫn chương trình bất hạnh đã được chở đi, Rimski chạy trở ra sân khấu và trông thấy ở đấy đang diễn ra những trò kỳ lạ mới. Và cũng đúng vào lúc đó, hay sớm hơn một chút, nhà ảo thuật cùng với chiếc ghế bành bạc thếch của mình đã biến khỏi sân khấu, đồng thời cần phải nói thêm rằng: các khán giả, đang mải mê với những chuyện khác thường mà Phagot gây ra trên sân khấu, không nhận thấy điều đó.

Phagot, sau khi đuổi người dẫn chương trình khốn khổ đi khỏi, liền tuyên bố với khán giả như sau:

„Còn bây giờ, khi đã tống cổ được cái tay gây chuyện chán ngắt kia, chúng ta sẽ mở một cửa hiệu nữ trang!»

Thế là ngay tức khắc sàn sân khấu được phủ bằng những tấm thảm Ba Tư, xuất hiện một dãy gương lớn hai bên được chiếu bằng những ống đèn màu xanh, và giữa những chiếc gương là các quầy bán hàng mẫu. Trong một quầy, khán giả kinh ngạc và vui vẻ trông thấy những tấm áo dài nữ Paris đủ kiểu cách, đủ màu sắc; trong quầy khác là hàng trăm chiếc mũ phụ nữ, cắm lông chim và không cắm lông chim, có khóa và không có khóa; hàng trăm đôi giày - đen, trắng, vàng, bằng da thuộc, da láng, da mịn, có đai móc, có ngọc dính. Giữa những đôi giày nổi lên vô số hộp, bên trong là các lọ pha lê đựng nước hoa lấp lánh. Hàng núi ví, túi xách bằng da sơn dương, da hươu mịn, bằng lụa, và giữa chúng là những đống lớn các hộp dài mạ vàng đựng các thỏi son môi.

Có quỷ nào biết bỗng từ đâu xuất hiện một cô gái tóc hung vận phục sức buổi tối màu đen, một cô gái xinh đẹp mọi bề, nếu như không có vết sẹo kỳ quái trên cổ làm xấu đi [3] ; cô ta đứng cạnh quầy hàng mỉm cười theo lối bà chủ.

Phagot, với nụ cười ngọt ngào, thông báo rằng hãng sẽ tổ chức một cuộc trao đổi hoàn toàn không mất tiền cho những ai đổi áo dài, giày dép cũ lấy áo và giày mốt Paris. Gã cũng nói thêm tương tự như vậy về túi, ví, nước hoa và các thứ khác.

Con mèo bắt đầu khuơ chân sau trên sàn, khuỵu gối xuống chào, đồng thời chân trước làm những động tác giống như động tác của những người bảo vệ mở cửa mời khách vào.

Cô gái cất giọng tuy hơi khàn khàn nhưng khá ngọt ngào, ngọng nghịu nói những câu gì đó khó hiểu, nhưng nếu xét theo vẻ mặt những người đàn bà ngồi dưới phòng xem, chắc là rất hấp dẫn:

„Herlen, Sanel số năm, Misuco, Narcis Nuar [4] áo dài dạ hội, áo dài để dự tiệc coctai...»

Phagot uốn éo, con mèo liên tục gập người cúi chào, còn cô gái mở các cánh cửa gương của tủ hàng.

„Xin mời!„ Phagot gào lên, «xin mời, cứ hoàn toàn mạnh dạn và tự nhiên!»

Khán giả hồi hộp, xôn xao, nhưng lúc này còn chưa ai dám lên sân khấu. Cuối cùng, một người đàn bà tóc đen bước ra khỏi hàng ghế thứ mười, mỉm cười với vẻ mặt thây kệ tất cả và nhổ toẹt vào tất cả, đi theo bậc tam cấp bên cạnh lên sân khấu.

„Hoan hô!„ Phagot hét, «xin chào bà khách đầu tiên! Beghemot, mang ghế lại! Thưa madam, bắt đầu từ giày ạ.»

Người đàn bà tóc đen ngồi vào ghế bành, và Phagot lập tức quẳng xuống thảm trước mặt chị ta cả một đống giày.

Người đàn bà tóc đen cởi chiếc giày bên chân phải của mình, đi thử một chiếc màu hoa cà, giẫm giẫm lên thảm, xem xét đế.

„Chúng có siết vào chân không đấy?„ chị ta hỏi vẻ nghĩ ngợi.

Phagot đáp lại đầy tự ái:

„Ðâu có, đâu có!„ và con mèo cũng ngoao lên vẻ không bằng lòng.

„Tôi lấy đôi này, thưa mexừ“, người đàn bà tóc đen kiêu kỳ nói và xỏ nốt chiếc thứ hai vào chân.

Ðôi giày cũ của người đàn bà tóc đen đã bị ném vào sau màn hậu, cả chị ta cũng đi theo vào đó cùng cô gái tóc hung và Phagot với mấy chiếc áo dài mẫu trên vai. Con mèo xăng xái chạy đi chạy lại và vắt lên cổ một chiếc thước dây để làm ra vẻ thêm phần quan trọng.

Một phút sau người đàn bà tóc đen bước từ bức màn hậu ra, trên người bận một chiếc áo dài gợi nên tiếng thở dài chạy suốt các hàng ghế khán giả. Người đàn bà dũng cảm, trở nên xinh đẹp đến kỳ lạ, bước tới đứng trước gương, cử động cặp vai trần, sửa lại búi tóc trên gáy và quay đầu, cố nhìn rõ lưng mình.

„Hãng xin madam nhận vật này làm kỷ niệm“, Phagot nói và trao cho người đàn bà tóc đen một hộp để mở đựng lọ nước hoa.

„Merci“, người đàn bà tóc đen kiêu kỳ đáp và bước xuống bậc tam cấp của sân khấu đi về chỗ ngồi. Trong khi chị ta đang bước đi, nhiều khán giả nhỏm dậy, chạm tay sờ vào chiếc hộp.

Ðến đây thì phòng xem nổ bùng lên như ong vỡ tổ, phụ nữ từ mọi hướng đổ xô lên sân khấu. Trong tiếng thở dài, cười nói kích động chung vang lên một giọng đàn ông: “Tôi không cho phép cô!” „và giọng đàn bà: “Ðồ độc tài thị dân, đừng có bẻ gãy tay tôi như thế!” Những người đàn bà biến mất vào phía sau tấm màn hậu, bỏ lại ở đó áo váy cũ của mình và bước ra trong những bộ trang phục mới.

Trên những chiếc ghế đẩu chân mạ vàng, các bà, các chị ngồi thành hàng, mạnh mẽ giẫm những đôi chân đi giày mới xuống thảm. Phagot quỳ xuống sàn giúp các bà, các chị đi giày; con mèo còng người mang hàng đống túi xách, ví và giày từ quầy đến, và ngược lại; cô gái với chiếc cổ bị vết sẹo cắt ngang lúc xuất hiện, lúc biến mất và bây giờ đã nói toàn bằng tiếng Pháp, nhưng một điều kỳ lạ là tất cả những người đàn bà, kể cả những người không biết lấy một từ tiếng Pháp nào, cũng lập tức hiểu cô ta ngay từ nửa lời.

Một người đàn ông chen lên sân khấu đã làm cho tất cả phải kinh ngạc. Ông ta thông báo rằng bà vợ của ông ta bị cúm, vì vậy xin chuyển qua ông ta cho vợ một cái gì đó. Ðể chứng minh rằng ông ta có vợ thật, người đàn ông sẵn sàng đưa hộ chiếu ra trình. Lời tuyên bố của người chồng chu đáo gây nên một trận cười ầm ĩ. Phagot gào lên rằng gã tin ông ta như tin chính bản thân mình, không cần hộ chiếu, và trao cho người đàn ông hai đôi tất lụa dài, về phần mình con mèo cũng tặng thêm một hộp son môi.

Những người đàn bà chậm chân chen nhau xô lên sân khấu; từ sân khấu chảy xuống là dòng người mặt mày rạng rỡ mặc áo dài dạ hội, áo pigiama thêu hình con rồng, áo vét lễ phục nghiêm túc, mũ đội lệch sang một bên đầu.

Lúc đó Phagot tuyên bố rằng vì đã quá khuya nên cửa hiệu sau một phút nữa sẽ đóng cửa cho đến tối mai, và trên sân khấu diễn ra một cảnh tột cùng hỗn loạn chưa từng thấy. Các bà, các cô vội vàng, cuống quýt, không cần đo ngắm, tranh nhau chộp lấy giày. Một bà xông vào sau tấm màn hậu như một cơn gió lốc, tụt áo quần của mình ném xuống đó rồi quấn lên người vật vớ được đầu tiên - chiếc áo choàng lụa thêu hoa lớn, và ngoài ra còn túm thêm được hai lọ nước hoa.

Ðúng một phút sau, một tiếng súng lục vang lên, những tấm gương biến mất, các quầy hàng và ghế đẩu biệt tăm, thảm trải sàn và màn che tan biến trong không khí. Cái biến mất sau cùng là núi áo quần và giày dép cũ cao ngất; sân khấu lại trở nên trần trụi, trống trải và nghiêm trang như trước.

Ðến lúc này có một nhân vật mới can thiệp vào sự việc.

Một giọng baritôn dễ nghe, âm vang và rất khoan thai vang lên từ hàng ghế lô số hai:

„Dù sao thì cũng đề nghị, thưa ngài nghệ sĩ, là ngài ngay lập tức lật tẩy cái kỹ thuật dựng tiết mục ảo thuật của các ngài, đặc biệt là cái tiết mục với những tờ giấy bạc. Ðồng thời cũng đề nghị cho người dẫn chương trình trở lại sân khấu. Khán giả rất lo lắng cho số phận của anh ấy.»

Giọng baritôn đó không phải của ai khác, mà là của Arkadi Apollonovich Sempleiarov, chủ tịch Hội đồng âm thanh các nhà hát Moskva, người khách danh dự của buổi diễn hôm nay.

Arkadi Apollonovich ngồi trong khoang lô với hai người đàn bà: một đã đứng tuổi, ăn vận rất mốt và đắt tiền, một còn trẻ và xinh đẹp, ăn vận giản dị hơn. Người thứ nhất, như sau này được biết trong khi lập biên bản, là phu nhân của Arkadi Apollonovich, còn người thứ hai là bà con họ xa của ông, một diễn viên trẻ bắt đầu vào nghề và có nhiều triển vọng, mới từ Saratov đến, hiện đang sống trong căn hộ của vợ chồng Arkadi Apollonovich.

„Pardon!„ Phagot đáp lời, «tôi xin lỗi, ở đây không có gì phải lật tẩy cả, tất cả đều rõ ràng.»

„Không, xin lỗi! Việc lật tẩy là hoàn toàn cần thiết. Nếu không, những tiết mục xuất sắc của các ngài sẽ để lại ấn tượng nặng nề. Quần chúng khán giả yêu cầu phải giải thích.»

„Quần chúng khán giả“, gã hề Phagot táo tợn cắt ngang lời của Sempleiarov, «hình như không có ý kiến gì cả thì phải? Nhưng để đáp ứng cái ý nguyện vô cùng đáng kính của ngài, thưa ngài Arkadi Apollonovich, tôi sẽ thực hiện sự lật tẩy. Nhưng để làm điều đó, xin ngài cho phép thêm một tiết mục nhỏ nữa, được không ạ?»

„Tất nhiên rồi“, Arkadi Apollonovich đáp với vẻ bao dung, «nhưng nhất thiết phải kèm theo sự lật tẩy.»

„Xin tuân lệnh, xin tuân lệnh. Vậy là, cho phép tôi được hỏi, tối hôm qua ngài ở đâu, thưa ngài Arkadi Apollonovich?»

Nghe cái câu hỏi không đúng chỗ, thậm chí còn là vô lễ, đểu cáng này, vẻ mặt Arkadi Apononovich lập tức thay đổi, và thay đổi rất rõ, rất nhiều là đằng khác.

„Ngài Arkadi Apollonovich tối qua đi dự một cuộc họp của Hội đồng âm thanh“, bà phu nhân của Arkadi Apollonovich tuyên bố một cách hết sức kênh kiệu, «nhưng tôi không hiểu điều đó thì có quan hệ gì tới các trò ảo thuật ở đây?»

„Úi, madam!„ Phagot đáp, «dĩ nhiên là bà không thể hiểu được. Về chuyện cuộc họp nọ thì bà hoàn toàn lầm. Sau khi đến địa điểm của cuộc họp được nhắc tới trên (mà nhân thể nói thêm, vào ngày hôm qua nói chung nó không hề được triệu tập), đến cạnh ngôi nhà trụ sở của Hội đồng âm thanh ở Hồ Nước Trong (cả nhà hát nín thở), Arkadi Apollonovich cho lái xe của mình về, còn tự mình lên ô tô buýt đi đến phố Elokhovskaia thăm nữ diễn viên Militsa Andreevna Polobatko của nhà hát lưu động quận, và lưu lại làm khách ở đó gần bốn tiếng đồng hồ.»

„Ôi!„ có ai đó kêu lên một cách đau khổ trong sự im lặng tuyệt đối.

Còn người đàn bà trẻ tuổi họ hàng của Arkadi Apollonovich bỗng phá ra cười bằng một giọng rất trầm và đáng sợ.

„Ra thế đấy!„ cô ta hét lên, «mà tôi đã ngờ ngợ điều đó từ lâu rồi. Bây giờ thì tôi hiểu vì sao cái cô ả bất tài đó lại được đóng vai Luiza [5] »!

Và, bất ngờ vung chiếc ô màu tím ngắn nhưng khá nặng, cô ta vụt mạnh nó lên đầu Arkadi Apollonovich.

Còn gã Phagot đểu cáng, hắn đồng thời cũng là Koroviev, hét tướng lên:

„Thấy chưa, thưa các quý vị kính mến, đây là một trường hợp của sự lật tẩy mà ngài Arkadi Apollonovich kiên trì đòi hỏi!»

„Ðồ mất dạy, sao mày lại dám động đến Arkadi Apollonovich hả?„ phu nhân của Arkadi Apollonovich hùng hổ cất tiếng hỏi và sừng sững đứng thẳng dậy trong khoang lô với toàn bộ tầm vóc đồ sộ của mình.

Một trận cười điên loạn ngắn thứ hai lại rung chuyển người đàn bà trẻ tuổi họ hàng của Arkadi Apollonovich.

„Ai không biết chứ tôi thì phải có quyền chạm tới chứ“, vừa cười sằng sặc, cô ta vừa đáp, và lần thứ hai lại vang lên tiếng va đập khô khốc của đầu cán ô văng ra khỏi mái đầu Arkadi Apollonovich.

„Công an! Bắt lấy nó!„ bà vợ của Arkadi Apollonovich hét lên bằng một giọng khủng khiếp đến nỗi nhiều người cảm thấy tim lạnh buốt.

Lại còn đúng lúc đó con mèo nhảy vọt ra tận mép sân khấu và bằng giọng người hét váng cả nhà hát:

„Buổi biểu diễn đã kết thúc! Ðại pháp sư! Hành khúc, gào lên!!!»

Nhạc trưởng choáng váng, không hiểu là mình đang làm gì, vung gậy chỉ huy lên, thế rồi dàn nhạc, không phải chơi, thậm chí không phải rộ, và thậm chí cũng không phải nổ bùng, mà quả là, đúng như cách diễn đạt đáng tởm lợm của con mèo, rống gào lên một điệu hành khúc nào đó suồng sã đến không tưởng tượng nổi.

Trong một thoáng có cảm tưởng như trước đây vào một lúc nào đó dưới những ánh sao của bầu trời phương Nam trong một café-chantant [6] đã từng nghe những lời khó hiểu, mù quáng, nhưng ngang tàng của bản hành khúc này:

Ðức ông đáng quý
Yêu thích gia cầm
Và thích bảo trợ
Các nàng mỹ nhân!!!

Mà cũng có thể không có lời nào như thế cả, mà lại là những lời khác cùng một giai điệu này, những lời hết sức tục tĩu. Nhưng điều quan trọng không phải là cái đó, điều quan trọng là sau tất cả những sự việc trên, ở nhà hát Tạp Kỹ đã diễn ra một sự hỗn loạn không tưởng nổi. Công an vội vã chạy đến khoang lô của gia đình Sempleiarov, những người tò mò trèo lên cả hàng rào chắn, khắp nơi nổ ra những trận cười, những tiếng la hét điên loạn bị át đi bởi tiếng thanh la của dàn nhạc vẫn tiếp tục chơi.

Rõ ràng là sân khấu bỗng trở nên trống trải, và gã Phagot bịp bợm lẫn con mèo Beghemot trơ tráo đã tan biến vào không khí, cũng hệt như trước đó nhà ảo thuật ngồi trong chiếc ghế bành với lớp vải bọc sờn bạc đã biến mất tự lúc nào.

Nguồn: Nguyên tác tiếng Nga MACTEP И МАРГАРИТА. In lần đầu tiên ở tạp chí Moskva, số 11 năm 1966 và số 1 năm 1967 nhưng bị cắt bỏ nhiều. Năm 1973 được in đầy đủ theo bản thảo lưu giữ ở Thư viện Quốc gia mang tên V. I. Lenin. Bản dịch tiếng Việt của Ðoàn Tử Huyến Mikhail Bulgakov, Nghệ nhân và Margarita, Nhà xuất bản Cầu Vồng và Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới hợp tác xuất bản, Moskva 1989, với lời giới thiệu của Giáo sư Viện sĩ Thông tấn P. Nikolaev, thực hiện theo Mikhail Bulgakov, Các tiểu thuyết Bạch vệ, tiểu thuyết sân khấu, Nghệ nhân và Margarita, Nhà Xuất bản Văn học, Moskva, 1973. Lần in thứ hai trong Mikhail Bulgakov. Tuyển tập văn xuôi, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1998, bản dịch đã được dịch giả xem lại đối chiếu với nguyên bản tiếng Nga in trong M. Bulgakov, Tuyển tập tác phẩm năm tập, tập 5, nhà xuất bản Văn học, Moskva, 1990. Phần chú giải được soạn dựa nhiều vào các chú giải của G. Lesskis in trong tập nói trên. Bản in lần này theo Nghệ Nhân và Margarita trong tập M. Bulgakov, Tuyển tập văn xuôi, Nxb Văn học, 1996, có sửa chữa một số chỗ.

[1]Rất vui lòng (tiếng Pháp).
[2]... con mèo: theo mê tín dân gian, mèo là bạn đường của ma quỷ, biểu tượng của bóng tối và thần chết, đôi khi là kẻ phục dịch nơi âm phủ. Tên gọi Beghemot (có nghĩa là con Hà Mã) cũng có nguồn gốc từ quan niệm dân gian cho Beghemot là quỷ. Beghemot là con vật huyền thoại trong Kinh Thánh và truyền thuyết một số dân tộc, tượng trưng cho sức mạnh bản năng, hoang dã.
[3]Cô gái... có vết sẹo: nhân vật nữ đầy tớ này của Voland bề ngoài có ít nhiều gợi liên tưởng tới Gretkhen của Goethe trong Faust.
[4]Herlen, Chanel, Narcis Nuar: nước hoa Pháp. Mixuko: nước hoa Nhật.
[5] ... vai Luiza: nữ nhân vật trong vở kịch Âm mưu và tình yêu của Siller.
[6]Café-chantant: các quán cà phê giải khát, thường có ca nhạc và nhảy múa giải trí.

Mikhail Bulgakov Nhà văn Nga, sinh ngày 15.5.1891 tại Kiev, mất ngày 10.3.1940 tại Maxcơva

Đoàn Tử Huyến sinh năm 1952 tại Đức Thọ, Hà Tĩnh. Nguyên là Giảng viên văn học Nga tại Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội, Biên tập viên NXB Lao động, Phó Tổng biên tập tạp chí Văn học nước ngoài của Hội nhà văn Việt Nam. Hiện là Chủ tịch Hội đồng khoa học của Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây.

Đã dịch trên 30 tác phẩm văn học từ tiếng Nga, trong đó có tập truyện vừa Những quả trứng định mệnh, kịch A. Puskin, truyện vừa Trái tim chó, tiểu thuyết Nghệ nhân và Margarita của M. Bulgakov, truyện vừa Đêm trắng của F. Doxtoevski, tiểu thuyết Đấng Cứu Thế của Otero Silva, tiểu thuyết Bố già của Mario Puzo (dịch cùng Trịnh Huy Ninh) v.v.

gui bai Gửi bài này cho bạn bè    in baiIn bài