talawas chủ nhật

 
Văn xuôi :: 16.12.2007

Trần VũSát Thát!

 

Trần Vũ

Sát Thát!

Kỵ binh Mông Cổ

Ngày 26 tháng 10 năm 1284 khi vó ngựa quân Mông Cổ giẫm lên đất Đại Việt tiến về bến Vạn Kiếp, chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc kẻ thù mạnh đến như vậy. Phía bắc, Trần Bình Trọng thảm bại trước kỵ binh của Ô Mã Nhi, bị bắt sống, tuyến phòng ngự Thăng Long tan vỡ. Phía nam, thủy quân của Toa Đô chiếm Nghệ An lập thế gọng kềm, vua Trần phải bỏ kinh sư chạy về phủ Thiên Trường. Định mệnh của dân tộc đã có thể chấm dứt ở cuối thế kỷ 13.

Nhưng chưa bao giờ trong những ngày nguy khốn cùng cực này, quyết tâm giữ đất của dân tộc cao đến vậy; tất cả nam nữ cùng thích lên tay hai chữ "Sát Thát".

"Sát Thát" đã được xâm lên da thịt của người Việt, để thấm vào máu Việt, để di truyền cho con cháu đời sau. Di truyền hào khí lẫm liệt của cả một dân tộc quyết không chịu nhục mà hôm nay, chúng ta, hãy còn tìm thấy trên trang sử cũ: "Thà làm quỷ nước Nam, còn hơn làm vương đất Bắc".

Bảy thế kỷ sau, dân tộc này hãy còn mang trong mình khí phách của "Đoạt sáo Chương Dương độ":


Chương Dương đoạt giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy ngàn thu

Bảy thế kỷ sau, di duệ của Trần Nguyên Hãn bị Bắc Kinh chiếm đất, với đầy miệt thị khiêu khích. Bảy thế kỷ sau, Hồ Cẩm Đào thực hiện di chúc của Hốt Tất Liệt, Mã Viện, Trương Phụ, Liễu Thăng, Tôn Sĩ Nghị, một cách dễ dàng không kèn trống. Chưa có đế quốc nào đi chiếm đất lân bang dễ dàng sung sướng như đế quốc Trung Hoa đầu thế kỷ 21. Vừa chiếm, vừa khinh, vừa được Chế Mân ôm hôn thắm thiết.

Bảy thế kỷ sau, tình thế đã khác. Nếu bối cảnh khác, lòng can đảm của dân tộc này không khác. Lòng can đảm mà môn võ thuật truyền thống của dân tộc còn lưu trữ: thế đánh ngoạn mục của Việt Võ Đạo tung người quặp đối thủ quật xuống đã phát xuất trong những ngày kỵ binh Mông Cổ tràn xuống Thái Nguyên, càn xuống Vĩnh Phú. Ít ngựa, thiếu phiêu kỵ, tổ tiên đã dùng dôi chân nông dân chạy thật nhanh, áp sát lườn ngựa, hất tung mình lấy chân quặp cổ kỵ mã Mông Cổ giựt chúi xuống đất rồi kết liễu bằng dao găm. Bảy thế kỷ sau, mới hôm qua, lòng can đảm hãy còn đó, khi những người lính của Trung đoàn Thủ đô ôm bom ba càng lao vào chiến xa Sherman. Mới đêm qua, các Trung đoàn Sông Lô, Tây Bắc, Tu Vũ, Nho Quan, đã đạp lên trùng trùng thép gai làm nên chiến thắng chấn động Điện Biên Phủ.

Chính sự hy sinh can đảm của dân tộc đã đánh tan Bán Lữ đoàn Lê dương 13 [1] , đơn vị lừng lẫy nhất của quân đội Pháp, đơn vị đã tử thủ tại Bir Hacheim [2] trước Xa đoàn châu Phi [3] Đức Quốc xã của thống chế Erwin Rommel. Chỉ trong 5 tiếng đồng hồ, từ 5 giờ chiều đến 10 giờ tối của ngày 13 tháng 3-1954, Tiểu đoàn 3 của Bán Lữ đoàn Lê dương 13 cáo chung trên đồi Béatrice. Nếu Toa Đô chết ở Tây Kết, Sầm Nghi Đống treo cổ tự vẫn trong trận đồn Ngọc Hồi, tư lệnh pháo binh Charles Piroth tự sát sau trận đồi Gabrielle.

Bảy thế kỷ sau Thoát Hoan, tổ tiên Nguyên Mông của Hồ Cẩm Đào, lòng ái quốc của dân tộc Việt vẫn nguyên vẹn.

Đầu thế kỷ 21, tình thế đã khác. Nếu Trung Hoa vĩ đại của Hồ Cẩm Đào chưa thực sự hùng mạnh như đế chế Mông Cổ, Đại Việt đã suy yếu. Quốc gia Việt Nam hôm nay thiếu sự đồng thuận dân tộc trong mọi lĩnh vực. Khác với triều Trần vô cùng hợp nhất từ lòng dân đến quốc giáo, từ làng mạc cho đến tận trong cung điện; vương quốc hậu Đại Việt ngày nay bị phân hoá. Nguyên nhân có thể tìm thấy trong hai nội chiến đẫm máu Trịnh-Nguyễn và Nam-Bắc, còn tìm thấy trong cả định hướng xã hội chủ nghĩa không hợp lòng dân. Bên cạnh sự phân hoá, phát lộ một yếu kém bản năng: Khả năng suy nghĩ đại dương không được hệ thống hoá, trống vắng, hay chưa hề có.

Chưa bao giờ như hôm nay, đứng trước biển, dân tộc Việt chứng kiến sự bất lực rõ rệt của mình trước đại dương. Nỗi bất hạnh to lớn ngang bằng sự bất lực vĩ đại trường kỳ trước dinh thái thú Tô Định trên đường Minh Khai. Khoảng cách vài trăm thước dài bằng khoảng cách nhiều trăm hải lý chia cách quần đảo Hoàng Sa. Sẽ không bao giờ dân Việt bơi đến. Sẽ không thể nào dân Việt chìa tay cho lính Trung Quốc trông thấy hai chữ "Sát Thát" xâm chín đỏ da thịt mình. Đại dương đã chiến thắng lòng can đảm.

Hậu quả của 40 thế kỷ văn hiến u tối không suy nghĩ biển? Hậu quả của sợ hãi phiêu lưu đến chân trời góc bễ? Sợ hãi thủy quái? Sợ hãi những điều chưa ghi chép trong sách Thánh Hiền? Khó phản biện, chỉ có thể thông cảm, với một dân tộc sinh sống bằng nghề trồng lúa, tình yêu đất cát, quê cha đất tổ, nơi chôn nhau cắt rốn, đã mãnh liệt hơn mặt biển không cho lúa. Chính tình cảm gắn bó quê mẹ đã khiến Đại Việt không có hạm đội viễn chinh, không phát triển ngành hàng hải. Nhưng nếu chưa biết cách chế ngự đại dương, chính tình yêu đất cát dữ dằn này đã giúp dân Việt bảo tồn lãnh thổ trước khối lượng người khủng khiếp của tộc Hán. Có thể viết, cũng chính Trung Quốc khiến dân tộc Việt trước thế kỷ 19 với xã hội làng mạc không thể có ngành hàng hải, vượt trùng dương lấy ai cầy cấy, lấy ai giữ ruộng vườn khi kẻ thù phương Bắc rình rập từng quý, khi kinh nghiệm máu xương khắc ghi: để chiến thắng Trung Hoa trong mỗi trận chiến, tổ quốc phải dốc toàn lực, toàn sức, với những mất mát hy sinh tận gốc rễ mà sau mỗi chiến thắng, nếu chiến thắng, còn phải triều cống. Đi biển sáu tháng, một năm, hai năm, như các tiểu quốc Bồ Đào Nha, Hoà Lan, Na Uy vượt khỏi tầm tay với của những nông phu nghèo, vượt khỏi ước mơ của những làng chài mong ngóng chồng con đem về một lưới cá.

Dân tộc này nghèo, nhưng sẵn sàng chết để giữ đất. Trung Hoa với tất cả những triết lý nhân sinh của Khổng, Lão, Trang đã không muốn hiểu. Riêng một mình Hồ Cẩm Đào thấu hiểu: “tình hữu nghị Việt - Trung đời đời bền vững”.

Hôm nay không ai trách cứ các triều Lý, Trần, Lê, Nguyễn đã không xây dựng một hạm đội Thái Bình Dương, như Minh trị Thiên hoàng đã hiểu ra thủy chiến quyết định sinh mệnh của Nhật Bản. Không ai trách tổ tiên, trong những ngày chiến thắng rực rỡ của Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ, đã không chiếm lấy đảo Hải Nam mà vị trí chiến lược khống chế toàn vịnh Bắc Bộ. Hôm nay, những sinh viên thanh niên biểu tình trước dinh thái thú Tô Định, trong ngày phẫn nộ 9 tháng 12-2007, đã trách: Vì sao quốc gia phải dâng hai châu Ô, châu Lý? Mà dâng khuất tất? Chiếm Hoàng Sa và Trường Sa, Hồ Cẩm Đào đã có thể khống chế vịnh Cam Ranh. Cánh cửa mở ra Thái Bình Dương vừa bị khóa.

Có phải vì vậy hay không mà đại diện Robert Lucius của hải quân Hoa Kỳ, tại Hà Nội, đã trả lời BBC lạt lẽo: “Hoa Kỳ chưa hề tiếp cận Việt Nam về vấn đề cảng Cam Ranh từ sau 1975, và cũng có đủ các cơ sở trong vùng nên không có nhu cầu sử dụng hải cảng này”. Trong câu nói, có vị chua ở đầu lưỡi. Có phải vì sự hiện diện của không hải lục Trung Hoa trên đảo Trường Sa đã triệt tiêu vị thế của Cam Ranh? Ở chính giữa thời điểm căng thẳng Việt - Trung, 24 giờ ngay sau khi sinh viên xuống đường, ba ngày trước khi đô đốc tổng tư lệnh Timothy Keating viếng thăm, từ chối khéo của Robert Lucius mang ý nghĩa trầm trọng gần như có thỏa thuận ngấm ngầm giữa các đế quốc.

Đến một buổi sáng dân tộc thức giấc đau đớn khắp mình mẩy, nỗi đau tím bầm da thịt mất đất, mất biển. Đến một buổi sáng dân tộc thức giấc vụt khám phá mình đơn thương độc mã, trơ trọi trước một tỷ người Hán. Khác chiến tranh biên giới 1979, Tổng Bí thư Lê Duẩn, sau phát súng lệnh đầu tiên, đã có thể ký hiệp ước quân sự hỗ tương Nga - Việt làm giảm áp lực phương Bắc. Hôm nay, chính phủ Việt Nam khó khăn tìm ra một hiệp ước quân sự để ký kết. Mà không thể ký kết, khi chính sách đối ngoại “Làm bạn với tất cả thế giới” không cho phép những liên minh quân sự với phía này hay phía khác. Đã đến buổi sáng, dân chúng thức giấc, kinh hoảng khám phá “Làm bạn với tất cả thế giới” là một thực tế trống rỗng, thiếu hậu thuẫn. Kẻ thù đã xuất hiện trùng trùng trên mặt biển. Trước hình ảnh Trương Phụ kéo lê thanh long đao, của Quan Vân Trường để lại, đứng trên đỉnh Hoá Châu chỉ xuống thung lũng mưa gió sấm sét, quát: Đất này là của Mã Viện; đại diện Robert Lucius, ngay giữa lòng thủ đô Thăng Long, đã nhã nhặn từ chối: Hoa Kỳ không cần bạn, chỉ cần đồng minh.

Trong buổi sáng tím tái, ướt đầm vì sóng biển, sinh viên Việt Nam muốn theo gương Trần Quốc Toản, giương lá cờ “Phá cường địch báo hoàng ân”, thậm chí sẵn sàng “Phá cường địch báo Hồng ân”, nhưng các cấm vệ lại cấm ngặt không cho phép, rồi bắt giải tán. Sao Đoàn Thanh niên Cộng sản tuổi trẻ Hồ Chí Minh lại thiếu ý chí, thua kém cả Đoàn Thanh niên Quốc xã tuổi trẻ Adolf Hitler đã chiến đấu trên từng đường phố Bá Linh, cho đến phút cuối cùng, cho đến viên đạn chót cùng trước Hồng quân Xô-viết, ngay cả khi không có chính nghĩa? Chúng ta tràn đầy muôn triệu lý do phải kháng cự, nhưng triều đình đã im lặng. Trong buổi sáng có những lượn sóng sắc như lam, nhởn nhơ chảy về từ biển Đông, làm chảy máu trái tim Việt, tất cả đã tuyệt vọng trông chờ một ánh mắt. Cái quắc mắt của Trần Thủ Độ khi trả lời vua Trần: “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo”. Cái quắc mắt đã cứu sống sinh mệnh Đại Việt, đã khiến vua Trần phải hiểu, không phải đầu thái sư, mà chính là đầu thiên tử sẽ rơi xuống đất trước tiên nếu quy hàng. Nhưng tất cả các quan đều đeo kính mát, khiến không ai có thể trông thấy ánh mắt của những điện tiền chỉ huy sứ.

Đơn thương độc mã và triều đình im tiếng, nên dân chúng phải tự đi tìm kế sách giữ nước. Karl von Clausewitz, ở chương thứ 4, tập 8, của cẩm nang Chiến tranh, phân tích:


“… Đứng trước trường hợp hai quốc gia tranh giành đất, hai bên lâm chiến đều cần thời gian. Câu hỏi đặt ra, ai trong hai phía, với tình trạng quốc gia riêng biệt, về lâu dài, sẽ thuận lợi? Cân nhắc tính chất của từng bên, kết luận luôn đưa đến kẻ yếu nhất sẽ thắng thế. Không phải sức mạnh, mà yếu tố tâm lý. Chính lòng tham, sự quan ngại, tranh chấp, tính toán, lẫn sự hỗ trợ trái ngược của những quốc gia đứng ngoài sẽ làm rạn nứt liên minh giữa chính họ với kẻ đang thắng thế. Càng dài lâu, kẻ thua thiệt càng nhiều cơ hội. Mặt khác, để khai thác thành quả của chiến thắng đầu tiên, phe đang chiếm ưu thế phải tổn hao rất nhiều sức lực. Không chỉ để chiếm đóng mà để duy trì sự chiếm đóng. Nếu tài nguyên của tỉnh lỵ tóm thâu, không đủ trang trải phí tổn, sẽ trở thành một sức nặng không thể gánh. Yếu tố thời gian, như vậy, có thể giúp lật ngược tình thế.

… Ngược lại, nếu những tỉnh lỵ vừa chiếm đoạt đủ quan trọng, và bao gộp những vùng chiến lược sống còn, cho lục địa hay những vùng không thể đụng đến, sự chiếm đóng sẽ lan nhanh như chứng ung thư. Kẻ lấn chiếm sẽ thu lợi nhuận nhiều hơn thất thu. Nếu không có một sự tiếp ứng nào đến từ bên ngoài, thời gian sẽ hoàn tất chiến quả đã khai mào, và những vùng đất khác sẽ tự rụng vào trong hầu bao giắt lưng của kẻ xâm lược. Thời gian trở thành yếu tố hỗ trợ kẻ đi xâm chiếm, tiếp tay cho đến chừng nào kẻ lấn chiếm không bị phản công. Trường hợp này, một đảo ngược tình thế khó khả thi; vì đến mức này, sự đảo ngược khó có giá trị, vì cốt lõi của chiến tranh đã được thực hiện, những hiểm nguy cao nhất kẻ xâm chiếm đã vượt qua. Trong một chữ, đối phương đã quỵ gối.”

(De la guerre, Karl Von Clausewitz, tập VIII, chương IV) [4]

Phân tích của Clausewitz năm 1830 làm dân Việt thêm tuyệt vọng, vì quốc gia Việt Nam đang rơi vào tình trạng "Nếu không có một sự tiếp ứng nào đến từ bên ngoài, thời gian sẽ hoàn tất chiến quả đã khai mào, và những vùng đất khác sẽ tự rụng vào trong hầu bao giắt lưng của kẻ xâm lược". Trong cẩm nang Chiến tranh, Clausewitz còn đòi hỏi một yếu tố tiên quyết khác: “Tính hợp nhất chính trị. Thiếu sự hợp nhất này, mọi chiến thuật, chiến lược đều vô vọng”. Chính đây là nhược điểm lớn nhất của đất nước. Vừa làm bạn với kẻ thù, vừa chia sẻ ý thức hệ, vừa phải phòng chống, khiến tất cả các sách lược không thể nhất quán.

Một tuần lễ sau Ngày Phẫn Uất, dân Việt ra đường ngỡ ngàng trông thấy trên các sạp báo, bản tin của báo Tuổi trẻ: Phát hiện âm mưu kích động tuần hành, biểu tình… Những hậu duệ của Trần Hưng Đạo lặng lẽ trở về nhà, lặng lẽ đội mũ bảo hiểm theo quy định, vì đây là biện pháp phòng chống bá quyền Trung Quốc duy nhất của đất nước.

Sẽ như Clausewitz tiên đoán, quốc gia rồi quỵ gối trở lại làm An Nam Giao Chỉ Quận? Toàn dân tộc trông cậy vào những cuộc tuần hành của tuổi trẻ, giữ cho vết xâm hai chữ “Sát Thát” của tổ tiên không biến mất, với hy vọng, giới hữu trách hiểu ra: Đảng cầm quyền sẽ mất tính chính danh nếu không bảo vệ lãnh thổ.

15 tháng 12-2007

© 2007 talawas

[1]Georges Blond, Histoire de la Légion Etrangère, nxb France Loisir, 1982
[2]Jacques Mordal, Bir Hacheim, Une épopée française, nxb Amiot – Dumont 1951
[3]Paul Carell, Afrika Korps, nxb Robert Lafond, 1960
[4]Karl von Clausewitz, De la guerre, Nxb Perrin, 2007

Trần Vũ (1962), hiện sống tại Paris. Tác phẩm mới nhất: "Suy nghĩ Mãn Thanh", talawas chủ nhật 13.01.2008. Website cá nhân của Trần Vũ: http://tranvu.free.fr/

gui bai Gửi bài này cho bạn bè    in baiIn bài