talawas chủ nhật

 
Văn xuôi :: 29.06.2008

Ngô Phan LưuChùm truyện ngắn

Ngô Phan Lưu
Ngô Phan Lưu

 

Ngô Phan Lưu

Chùm truyện ngắn

 

Bộ răng của ông răng

Ông Răng, tức Phùng Phục, góa vợ tám năm, nay đã bảy chục. Ông có đôi mắt sáng như đèn pin hết pin. Nhìn mắt ông, người ta thấy hai đóm đỏ.

Xóm làng gọi ông là Răng, bởi ông rụng hết răng từ hồi trung niên.

Quê tôi thích nói ngược.

Nếu người lạ nào biết được tật này, họ có thể đại cương một người nào đó đến xóm tôi, khi nghe nói tên.

Ví như, chị 8 Đẹp, thì chị ấy xấu dưới xấu đến 8 lần. Ông Hiền, đừng đến gần, mang họa; còn ông Ác, cứ quen.

Thế nên, ai mà được quê tôi gọi là Thầy, hãy coi chừng. Còn gọi Ngài, hãy trốn biệt xứ, kẻo khốn.

*

Tháng trước, mắt ông Răng đỏ hơn trong đêm khuya, mỗi khi nghĩ đến bà 9 Tốt.

Bà 9 Tốt, da dày mày trắng, mặt nhiều tàn nhang. Sém 60, bà trông vẫn như hoa héo, không phải hoa tàn. Các bác đi núi thường ghé vào, vẫn bảo: “Hoa quỳnh đấy. Nấu cháo ngọt nước lắm”. Bà là chủ quán ăn nhỏ, tấp nập khách ra vào. Bà có khuôn mặt tròn, mắt cạn, mũi tẹt, miệng rộng, cơ thể dềnh dàng, có nguy cơ phì nộn. Tuy tướng tá thế, nhưng đứng gần, người ta nghe mát và ý thức được sự mảnh mai.

Nhìn bà, lúc nào cũng như vừa mới tắm (bà vừa tắm, mà mình cũng vừa tắm). Bà có nét quyến rũ của giường nệm, chăn gối và cơn ngủ; của sạch sẽ và cả sự mệt nhoài.

Có lần đi ngang thấy vắng vẻ, ông Răng tạt vào quán bà, uống cốc bia, vui miệng nói: “Chỉ có bà là tốt thôi”. Tức thì, bà mím môi, trừng mắt đe ông, trông thật dễ chịu. Ông vội chữa lại: “Chỉ có bà là xấu thôi”. Bà cười tươi, khóe miệng giáp mang tai. Bà lấy tay chích vào trán ông: “Chỉ có ông là xấu thôi”. Thế là cả hai cùng cười. Hứng chí, ông vỗ vai, mời bà một chai và bà uống sạch. Uống xong, bà lại máy mở nhạc Rock (tiếng Rock nên hiểu theo tật quê tôi, nghĩa là êm nhẹ). Rồi, sà sát vào ông, ngón tay chích vào trán lần nữa, mạnh đến nỗi, ông suýt ngã, phải ôm lấy bà. Bà nghiến răng nói: “Đi trồng răng đi. Nói phải nghe. Giống trẻ nít quá chừng”.

Sáng hôm sau, ông về thị xã trồng răng, chi phí 800.000 đồng.

*

Kết quả đạt được sau khi trồng răng:

- Từ gia đình: Đồ mắc dịch. Cưa sừng làm nghé. Nhiều cái cau mày.

- Từ quê hương: Cái tên mới là Rụng. Nhiều tiếng cười giỡn.

*

Thế đấy, vì buồn nhiều, ông Răng lại năng đến quán bà 9 Tốt. Đang ngồi uống rượu, ông bỗng đưa tay sờ răng, lẩm bẩm: “Hai lần ngược, hóa ra lại đúng. Trước là Răng, giờ thì Rụng, đúng là Răng rụng. Kỳ thật.” Ông bật cười, lẩm bẩm tiếp: “Khá thật, quê mình khá thật”, nhưng ông liền cau mặt nhói đau, khi câu “Cưa sừng làm nghé” của thằng Bảy Ngu lại cựa quậy trong đầu. Bực mình, ông rót rượu uống tiếp.

Bỗng, ông muốn về nhà, nghỉ cho khỏe và đùa với cháu, uống rượu nhiều không tốt nữa. Nhưng ông lại không về, vì con cháu không còn như trước nữa, chúng coi ông không có trăm cà ram nào, về chi?! Ông lại đốt thuốc, ực rượu và suy tư: “Nếu ta tháo răng cất, nhà ta có như cũ không?” Xóm làng có gọi tên cũ là Răng không? Có lẽ lắm. Vậy là, ta phải cất cái Rụng để được Răng. Ôi, mà Răng lại chính là Rụng. Bà 9 Tốt không ưa. Vậy thì ta phải mang Răng để Rụng còn Răng”. Ông ực một ly nữa, lắc đầu: “Rối rắm quá chừng”.

Ông nhìn ra, nhìn vào, nhìn lên, nhìn xuống, nhìn quanh quất. Ông lại cười, lẩm bẩm: “Rượu làm mình tối dạ, nhưng sáng mắt. Tối dạ cũng không cần chi. Sáng mắt là được. Ôi, thế giới đẹp quá. Có con chó con sủa cóc, trẻ nhỏ ba ta đá banh, gà hột dầu cục tác, bà già quét sân, trẻ nít ham ăn, già nua ham đạo đức cam chuột, honđa, con bò nhai lại, răng giả ngồi đây, bên bà 9 Tốt đếm tiền... Rối rắm quá chừng.”

Ông gọi thêm rượu, ông thoáng thấy trong mắt bà 9 Tốt có sự kinh khiếp khi nhìn ông cười. Ông tức cười về chuyện này và ông cười hoài. Như chịu không nổi, bà 9 Tốt tiến lại phía ông, ôm đầu ông, nói nhỏ vào tai: “Anh tháo răng cất đi”. Ông nhìn thấy hai khoảng vú của bà, ông cười to, nói: “Tám trăm ngàn mà cất à?” Bà thì thầm vào tai ông: “Em không quen nhìn anh có răng. Em sợ”. Ông thích chí, nói lớn: “Thế thì tôi phải đeo thêm hai tròng mắt giả nữa mới được”.

Bà 9 Tốt thả ông ra, nhảy chôm chôm như giẫm phải sâu róm.

Ông thấy cái quán tự nhiên chật lại và ấm lên, thoang thoảng mùi nước hoa. Ông nói: “Đời tôi do bà định đoạt” và ông liền tháo răng đặt lên bàn. Bà 9 Tốt đi ngang như cua, đưa bao ni lông cho ông, không dám nhìn hai hàm răng. Ông gói cẩn thận hai hàm răng giả, nhét vào túi áo, rồi ông ngắm bà chằm chằm, như ngầm bảo: “Rồi đấy. Vừa ý chưa?” Bà ngồi sát ông, ngẹo đầu tựa vai, ngước mắt nhìn ông: “Anh như thế này mới coi được. Em đã sai lắm. Em phạt em một ly nè...”

Bà đứng dậy, rót rượu, uống cạn, rồi đi xuống bếp hầm nồi cà ri dê.

Ông Rụng, xin lỗi, bây giờ không Rụng nữa vì đã cất răng, ông Răng đang nhìn theo bà đắm đuối. Ông quyết định trong óc: “Ta không đeo răng nữa. Phải quăng đi như một kỷ niệm”.

*

Dưới ánh trăng, con đường về nhà như được tráng bạc. Ông say quá, loạng choạng trên đường. Khi đến con mương lớn, ông nhớ lại cho tay vào túi, lôi túi ni lông đựng hai hàm răng giả ra và thẳng cánh quăng tõm xuống nước. Ông nhìn theo cái bao bóng trôi đi, nó không chìm. Ông cười to, vẫy tay, nói với theo: “Vĩnh biệt. Chào”.

*

Kết quả đạt được sau khi quăng răng:

- Từ gia đình: Ông già đứt dây. Trửng mỡ. Phung phí.

- Từ quê hương: Cái tên nữa là Lượm và nhiều cái bĩu môi.


*

Ngồi uống trà, ông nhận ra mình, thật bơ vơ. Ông chép miệng: “Ta là đào kép, còn lại là khán giả”. Ông nghe bộ rễ đời mình bám vào gia đình, xã hội, như đang lỏng ra, sắp đứt đi nhiều sợi căn bản. Cố nối lại, thì nó ngắn thêm. Tất cả bỗng nhiên như trườn qua tay ông, hiên ngang, thách thức.

Ông lại tìm đén nhà bà 9 Tốt.

Ông lầm lũi đi giữa xóm làng như đi giữa sa mạc. Ông cô đơn cùng cực.

Vừa đặt chân vào cửa quán, bà 9 Tốt chạy đến, áng ngay trước mặt không cho ông tiến vào. Bà đanh mặt, xẵng: “Lâu rồi. Ông tính sổ đi. Từ nay không ghi nữa. Người ta đồn ầm lên, tôi bỏ bùa ông, làm tan gia bại sản nhà ông, con cháu ông đòi đốt quán tôi.”

Ông há hốc mồm, hai đóm đỏ nơi mắt ông tắt đi. Ông nghe trong người răng rắc như một cái cây già đang bị người ta nhổ rễ.

Trước mắt ông là mặt bà 9 Tốt, mà bây giờ ông mới thấy, là xấu dưới xấu đến 9 lần. Mặt ấy, trắng toát như tờ giấy tính tiền, mà những tàn nhang là những chữ số. Ông tiếc 800.000 đồng trôi theo dòng nước. Ông không lượm lại được, bởi vì ông là Lượm, có nghĩa là quăng đi...



Cảm tính

Chuyến xe Sài Gòn - Đà Nẵng, tôi ngồi giữa hai cụ ông.

Cụ bên phải, tân cổ giao duyên: bà ba cổ bâu, nút thắt con bọ, khoác vét-tông xám, chân giày da, nón cối lá cọ, hút tẩu, tóc trắng như mây, râu ria trời sinh sao để vậy, đặc biệt không còn một cái răng nào. Nụ cười của cụ, trông ngồ ngộ, êm như nhung. Có lẽ răng là vật cứng nên không răng tạo cảm tưởng êm chăng? Cụ cười giống trẻ nít quá chừng. Tôi nhận định: Cụ này hiền.

Nhưng, cụ ông ngồi bên trái, không như thế. Cụ diện sơ mi rằn, quần tây, giày hạm đội, kính râm, râu ria nhẵn thín, răng giả trắng đến lóa, tóc chưa nhuộm lại, vì chân tóc lộ trắng đến một phân, khuôn mặt dày dạn, nếp nhăn rối rít, sâu như dao xẻ. Hình thức ấy không lừa được tôi, tôi quyết rằng cụ này còn cao tuổi hơn cụ kia. Tôi đánh hơi được mùi ác từ cụ này bay ra.

Tôi nhích xa cụ này để sát gần cụ kia.

Xe vẫn tốc độ cao, tôi lơ đãng nhìn ra cửa xe, bỗng nhớ đến bà cụ Rin trong truyện ngắn “Kể về núi Narayama” của Sichiro Fukazawa, Nhật Bản. Bà cụ Rin đã bí mật dùng đá ghè hai hàm răng, bà đập gãy từng chiếc một, vì già nua mà còn răng nhiều như thế là một điều nhục đối với con cháu và xóm giềng! Bỗng dưng, tôi mất thiện cảm với ông cụ hiện đại này. Cái ác cảm như mây, phình to, trôi giạt lung tung. Tôi thoáng thấy cụ này bóc kẹo Chewing-gum nhai chóc chách, thì đám mây ác cảm kia bỗng đen sì trong tôi muốn nổi giông.

Tôi rút điếu thuốc định hút, nhưng lại thôi, không đốt. Tay vẫn nắm điêùu thuốc chưa đốt, tôi gợi chuyện với cụ không răng bên phải:

“Thưa, cụ về đâu ạ?”

Cụ cười, lật đật chọc tay vào túi, lôi ra cái bật lửa gaz màu nâu đưa tôi. Tôi cầm lấy, rồi cũng cười. Hóa ra, cụ bị nặng tai, có thể điếc đặc cũng nên.

Tôi vẫn nghe nhiều người bảo rằng: Khi đã già, thì điếc lại là một điều tốt. Vì lời thị phi, tiếng độc địa, không lọt được vào tai họ, đầu óc không bị tổn thương. Đặc biệt trong phạm vi loài người, cái miệng là “độc” nhất, nhưng nó chỉ độc với đôi tai tốt, còn đôi tai điếc, cái miệng độc địa kia sẽ vô nghiệm. Cho nên người điếc lòng họ trong hơn, thanh thản hơn, họ hay cười, và họ cười coi được.

Tôi quyết chắc rằng, ông cụ hiện đại bên trái tôi, cụ ấy không điếc. Để trắc nghiệm, tôi quay sang cụ, nói vừa đủ nghe:

“Thưa, cụ về đâu ạ?”

“Anh hỏi làm gì?”

Cụ trả lời, mà không trả lời, giọng miễn cưỡng, lạnh lùng như nước đá, mắt vẫn dõi ra cửa xe. Có lẽ, do lăn lộn nhiều, con người đã co cứng lại, cố thủ trong lô cốt thân xác, sẵn sàng nhả đạn.

Tôi đốt thuốc, trả bật lửa cho cụ không răng. Cả hai lại cười. Có lẽ, gần cụ cách duy nhất tốt là cười. Tôi mời thuốc, cụ thò tay “nhón” một điếu. Đồng hồ tay cụ chỉ 10 giờ 5 phút. Đồng hồ xịn, tôi cười, cụ cũng cười.

Thật dễ chịu, khi giao tiếp vắng tiếng nói. Giao tiếp kiểu này, dường như không còn nằm ở ngoại vi nữa, mà đã tiến vào tâm hồn. Giờ đây, tận sâu thẳm lòng tôi, cụ rất gần gũi. Cụ răng giả bên trái tôi, đã rớt ra ngoài, biến mất.

Tôi đảo mắt nhìn khắp xe. Trong xe, đa số ngủ gà ngủ gật, nước dãi nhễu lòng thòng như tơ trời. Giá mà nước dãi này ở loài chim yến hải đảo thì xuất khẩu, nhưng ở đây thì xin vái. Một số khác thì thức với khuôn mặt mệt mỏi, nhàu nát.

Trong những chuyến xe chạy đường dài, những khuôn mặt xấu nhất lại là những khuôn mặt phấn son nhiều nhất. Sự trang điểm chỉ đẹp khi tươi tỉnh, nhưng trang điểm để nôn thốc tháo trong bao nhựa bóng, trông lại ghê lắm!

Tôi bỗng nhớ, khi ra khỏi nhà, đứa cháu ngoại có trao tôi gói bắp rang. Nó líu lo: “Cho ông ngoại đi xe nhai.” Tôi vội lôi trong túi quần ra gói bắp rang ấy. Tôi nhai lắc cắc và mời cụ không răng bên phải cùng ăn. Nhìn thấy bắp rang, cụ cười tợn, lắc đầu nguầy nguậy. Tôi cũng cười tợn.

Nhai bắp + đứa cháu ngoại + cười, ba yếu tố ấy đã dìu tôi về tuổi thơ xa lắc ngày xưa. Thuở ấy, sáng nào đến trường, hai túi quần sọt tôi cũng đầy nhóc bắp rang. Hai bắp vế non cứ nóng hổi. Sáng lành lạnh, bụng thuộc bài, mà hai bắp vê nóng hổi, còn gì hạnh phúc bằng...

Đột ngột, chiếc xe tăng tốc, lấn lướt các xe khác. Thì ra, đằng xa phía trước, có một bà lão đứng lọt thỏm nơi mé đường đang vẫy tay tới tấp. Xe dạt vào lề, thắng lại.

Chú thanh niên phục vụ vạm vỡ, mở cửa nhanh như cắt, lao xuống như tên. Chú ẵm ngay bà cụ lên xe, đặt xuống nệm ghế trống, nhẹ nhàng như đặt một cái nồi cơm điện. Một thoáng, gợi nhớ đến hình ảnh con quạ gắp chú gà con. Chiếc xe lại lao vút. Nhiều người cười ồ. Nhiều người nhăn mặt.

Không hiểu sao, đột ngột tôi quay nhìn ông cụ răng giả hiện đại bên trái. Mép cụ hằn sâu xuống, khuôn mặt toát vẻ khinh bỉ cùng cực. Tôi vội quay sang nhìn bà cụ vừa lên xe. Bà đang vuốt lại tóc, kiểm tra lại cúc áo. Thay vì chửi rủa chú thanh niên phụ xe, cụ lại thẹn thùng đỏ mặt. Cái nữ tính đã không già, không chết. Tôi vụt hiểu ra, ông cụ răng giả hiện đại kia đã thấy rõ điều này nơi bà cụ, và ông ta đang khinh bỉ.

Lúc này, bà cụ nhìn láo liên xung quanh, lại thẹn thùng và cười. Một nụ cười tỏa sáng trên khuôn mặt nhăn nheo.

Tôi lại quay sang ông cụ điếc đặc, không răng, tôi thấy ông cười thật trong sáng, thông cảm cho tình huống vừa rồi của cụ bà, tuyệt nhiên không chút dấu vết khinh khi.

Tôi lại nhìn sang ông cụ răng giả hiện đại lần nữa, ánh vẻ khinh bỉ nơi cụ chưa tan.

Tôi chán nản vỡ ra rằng, ông cụ răng giả hiện đại bên trái tôi, không biến mất trong tôi như tôi tưởng, mà còn thò bàn tay vô hình cào xé.

Đột nhiên, tôi ngáp dài...



Cũng một nụ cười

8 giờ tối. Vừa mãn hội thảo “Cuộc sống mới”, từ Melia ra một quãng, tôi hỏi thăm chị quét đường, khẩu trang che kín mồm mũi: “Chị biết đâu có xe ôm không?”

Chị ngừng chổi, nhìn tôi từ đầu tới chân. Đột ngột chị tháo khẩu trang: “Có. Em đây.” Và, chị cười im lặng. Nụ cười e dè nhưng êm như nhung.

Ồ! Đùa ư? Nhưng nụ cười chị không đùa. Trước nụ cười ấy, tôi lúng túng. Vừa tự do vừa trói buột.

Để trắc nghiệm, tôi hỏi: “Vậy, xe đặt chỗ nào?”. Chị chỉ tay sang trái: “Phía trong tường.” Rồi lại cười im lặng. Một lần nữa nụ cười chị không đùa. Trước nụ cười ấy, tôi lại lúng túng.

Lúc này, một cô gái nước ngoài, đi ngang qua, chân sải dài, mắt ngước lên trời đã va vào tôi. Cú va chạm bay mùi nước hoa này, làm tôi nghĩ đến thực phẩm có thể đã bị nhiễm độc. Tôi nói với chị quét đường: “Thôi. Khi khác vậy”. Chị cười một lần nữa và tôi lại lúng túng, chân bước đi yếu xìu. Ba lần cười đều như nhau.

Một tháng sau, trong chuyến xe miền Tây về An Giang, tôi gặp một chị bán quà rong cũng sở hữu nụ cười như thế. Chị xìa mẹt và rong vào một vị khách ăn mặt chỉnh tề: “Em mời ông anh hút thuốc? Em mời ông anh nhai kẹo xing-gum?”. Tôi quan sát vừa dứt lời, chị cười im lặng. Gặp nụ cười ấy, vị khách vội sửa lại kính đột nhiên mặt lạnh như tiền. Chị ta lại mời, cuối cùng lại cười, vị khách vội quay nhìn chỗ khác. Ông đã lúng túng! Tôi liền gọi chị để mua thỏi kẹo, nhưng không thấy nụ cười ấy nữa.

Xe lăn bánh. Chị vướng khách, không xuống xe được. Cái mẹt quà rong cứ bơi trên đầu. Ngay lúc khó khăn này, vị khách kia lại gọi chị để mua thuốc lá. Tôi sững người khi thấy chị mắng vị khách : “Điệu quá há? Mời rã họng không mua. Điệu quá há? Điệu chảy nước đái”. Mắng xong, chị lách người, nhô mặt hướng về vị khách: Chị cười. Tôi giật thót. Cũng nụ cười ban nãy. Tôi thật sự lúng túng. Tôi chờ sấm sét nổ ra nơi vị khách, nhưng không, vị khách lại lúng túng. Hai lần cười vẫn nụ cười như nhau.

Một hôm, tại chùa Quang Phổ nơi một vùng cao, tôi trò chuyện với một sư bà. Tôi ngợi ca cảnh chùa: “Đây là một niết bàn”. Sư bà lại phản đối: “Niết bàn là ở chỗ khác kia. Nơi ấy, mặt đất không bao giờ dơ. Kẻ nào lỡ ‘vãi’ ra đây, mặt đất liền nứt ra, rồi khép lại, chôn vùi bãi phân vĩnh viễn. Một trẻ sơ sinh vất ở ngã ba đường, vẫn không chết được. Người qua lại, ai cũng có ngón tay chảy sữa cho bé bú. Trái cây chín mọng treo lủng lẳng không bao giờ thối rữa. Trong thinh không đầy ắp tiếng nhạc trời”. Nói xong, sư bà nhìn tôi và cười im lặng. Lại cũng một nụ cười đặc biệt ấy làm tôi lúng túng. Sư bà nay đã tám mươi, nhưng nụ cười đặc biệt này không già. Tôi vụt nghĩ rằng: Nụ cười ấy, nó không có tuổi, cũng không có tiền bối và đệ tử.

Tuần trước, tôi cũng gặp nụ cười đặc biệt này nơi cháu gái bốn tuổi tại nhà một người bạn. Cháu thò tay chạm nhẹ vào đôi kính mắt đặt trên bàn, nhìn tôi, cháu cười im lặng. Trước cái cười ấy, tôi lại rơi vào lúng túng. Bỗng, trong một thoáng, nhanh hơn một thoáng, nụ cười của hai chị phụ nữ kia, nụ cười của sư bà vụt hiện ra phủ chồng lên cái cười của cháu bé ngây thơ này, tạo thành một nụ cười duy nhất. Tôi giật mình và mơ hồ nghĩ rằng: phải chăng, cái nụ cười đặc biệt này là của chung, nó đã sử dụng con người, chứ không phải con người sử dụng nó.

Giờ đây, đang đong đưa trên võng, chờ giấc ngủ thì nụ cười đặc biệt kia, một nụ cười khó có hoạ sĩ đa tài nào vẽ nổi, vẫn treo lơ lửng trên trần nhà, vẫn còn quyền lực gây lúng túng cho dù nó không đậu trên một khuôn mặt nào. Tại sao? Phải chăng, nó đã trao ta cái quyền toàn quyền định đoạt giữa hy vọng và một nguy cơ?

© 2008 talawas

Ngô Phan Lưu ssinh năm 1946. Quê Phú Yên. Đang là sinh viên khoa Triết, Đại học Văn khoa Sài Gòn thì Ngô Phan Lưu bị động viên đi trừ bị Thủ Đức. Sau năm 1975, ông sống bằng nghề làm ruộng và nhiếp ảnh ở Phú Yên. Bắt đầu viết văn từ năm 1995.

Tác phẩm: Bếp lửa chiều đông (tập thơ, 1997), Người không giăng câu Kiều (tập truyện, 2004)

Giải thưởng: Giải Nhất truyện ngắn báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam với hai tác phẩm Buổi sáng biến mấtCơm chiều.

gui bai Gửi bài này cho bạn bè    in baiIn bài